BÀI ĐĂNG MỚI

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011

Bài giảng Chúa nhật IV Mùa Vọng (Văn Hương)

Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta đã cùng nhau bày tỏ tâm tình biết ơn Chúa nơi lời đáp ca : “Lạy Chúa, tôi sẽ ca hát lòng từ bi Chúa đến muôn đời”. Và qua các bài đọc chúng ta vừa nghe (cụ thể là bài đọc 1 và bài Tin mừng), chúng ta biết được Thiên Chúa thể hiện lòng từ bi của Ngài như thế nào!
Bài đọc thứ nhất thuật lại lời Chúa phán với Đavít qua tiên tri Nathan sau khi Đavít tỏ bày ước nguyện xây một ngôi nhà cho Chúa ngự. Ngài hứa sẽ tạo lập cho Đavít một nhà bình yên và vững bền mãi mãi. Nhà ở đây có thể hiểu là vương quyền của Đavít và cũng có thể hiểu là con người gồm có xác – hồn. Như thế, Đavít muốn một thì Thiên Chúa lại ban cho nhiều (nói là nhiều vì thấy không thể dùng số để so sánh được) vượt trên lời Kinh Thánh Chép : “Lòng vua ước nguyện sao, Chúa đã ban như vậy, miệng vua khấn xin gì, Ngài cũng không từ chối”(Tv 21,3). Và bài Tin mừng cho thấy Thiên Chúa thực hiện điều này. Qua trình thuật Truyền tin chúng ta dễ dàng nhận thấy lời Chúa hứa với Đavit năm xưa được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đavít, và làm vua đến muôn đời muôn thuở. Đặc biệt, Đức Maria, sau khi thưa “Xin Vâng” đã trở nên người cưu mang Con Thiên Chúa trong cung lòng mình. Chính sự cưu mang này mà Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói “Mẹ là nhà tạm đầu tiên của Thiên Chúa”. Và với ý tưởng tương tự, thánh Phaolô áp dụng cho những ai tin vào Chúa Giêsu, ngài nói : “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ?” (1 Cr 3,16). Như thế, lòng từ bi của Thiên Chúa không chỉ là cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (Mt 5,45). Hay sẵn sàng đón nhận tội nhân sám hối, nhưng còn làm cho con người vốn mỏng dòn, thường nhiễm uế của chúng ta thành nhà để Người cư ngụ. Tức là thần hóa chúng ta nên như lời Kinh Thánh chép : “chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, như lời Người phán : Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ta” (1Cr 6,16).
Ước gì chúng ta có được thao thức xây cho Chúa một ngôi nhà để Ngài cư ngụ như Đavít, cụ thể là đền thờ thiêng liêng nơi thân xác chúng ta. Và xin Đức Maria giúp chúng ta biết cách cư mang Chúa trong tâm hồn mình. Người ta nói, không có sự giàu sang phú quý nào sánh bằng có Thiên Chúa nơi bản thân.
Xin Chúa cho chúng ta được như vậy.

Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2011

Bộ sưu tập hình hang đá máng cỏ

Bài giảng Chúa nhật IV Mùa Vọng (JosKieu)

TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA
Một trong ba gương mặt nổi bật trong mùa vọng đó là Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn để trực tiếp tham dự vào công trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại. Ngày xưa trong thời cựu ước, loài người phải chết vì lỗi của Evà không vâng phục Thiên Chúa, nay nhờ tiếng xin vâng của Mẹ Maria mà nhân loại được sống. Mẹ đã trở thành Evà mới, là mẹ của tất cả chúng sinh.
Mẹ Maria là mẫu gương cho ta về lòng vâng phục tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, và Mẹ sẵn lòng để Thiên Chúa thực hiện những gì Thiên Chúa muốn nơi Mẹ.
Để được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ nhiều đặc ân xứng với chức vụ cao cả của Mẹ. Lúc truyền tin Thiên Thần Gabiel đã chào Mẹ là Đấng đầy ơn phúc. Mẹ cần được ân sủng Chúa nâng đỡ, để Mẹ có thể hoàn toàn tự do đáp lại tiếng xin vâng trong hành trình đức tin.
Nhưng ân sủng không làm cho Mẹ mất hết tự do và trách nhiệm. Mẹ đã đáp lại ân sủng của Thiên Chúa với sự khiêm tốn quảng đại. Tiếng Xin Vâng của Mẹ trong biến cố truyền tin là cử chỉ khiêm tốn và tấm lòng rộng mở đón nhận Đấng Cứu Thế vào trong cuộc đời Mẹ, và Mẹ đã trung tín với tiếng Xin Vâng đó cho đến trọn đời.
Thiên Chúa toàn năng đã muốn chuẩn bị cho Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô một cung điện xứng đáng nhất, tình tuyền nhất, đẹp nhất để nhập thể làm người. Đó là cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Bởi thế, Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ được đầy ơn phúc, ơn phúc mà Chúa Giê-su cũng sẽ ban tặng cho mỗi người chúng ta.
Trong lịch sử Giáo hội, chúng ta thấy có rất nhiều điều con người tưởng như không thể làm được, không thể xảy ra, thì Thiên Chúa đã làm được. Điều mà đối với loài người không thể được, thì đối với Thiên Chúa lại trở nên dễ dàng, vì Thiên Chúa làm được mọi sự. (Mẹ của Samson, mẹ của Samuel, mẹ của Gioan tác giả và hôm nay Mẹ của Chúa Giêsu) đều là những người phụ nữ son sẻ, hoặc đồng trinh, nhưng đã sinh con và những người con của họ đều là những người đã được Thiên Chúa tuyển chọn, để thực hiện công trình vĩ đại của Ngài là cứu chuộc con người. Điều đó cho chúng ta thấy : sự bất lực của con người lại là cơ hội để Thiên Chúa bày tỏ quyền năng và tình thương của Ngài đối với nhân loại.
Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những điều trọng đại và kì diệu, miễn là chúng ta tin và sẵn sằng để cho Ngài hoạt động trong chúng ta.
Lịch sử cứu độ được thực hiện và diễn ra trong lịch sử nhân loại. Chúng ta biết nhìn lại lịch sử cuộc đời mình qua từng biến cố vui buồn, để nhận ra tình thương yêu quan phòng của Chúa đối với chúng ta, để chúng ta biết sống và đáp trả tình yêu Chúa cho cân xứng.
Trong mùa vọng, đặc biệt là trong những ngày chuẩn bị gần đến lễ Giáng Sinh. Trong khi chúng ta lo lắng những việc bên ngoài như chuẩn bị đèn sao, hoa nến, hang đá... chúng ta cũng biết dành một ít thời giờ để hồi tâm, xét mình, chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để đón Chúa đến. Có lẽ đó là điều Chúa cần nhất nơi mỗi người chúng ta.
Sống mùa vọng là để cho Con Thiên Chúa đi vào cuộc đời mình. Như Đức Maria, chúng ta được mời gọi cưu mang Con Thiên Chúa, làm cho Chúa Giêsu được lớn lên mỗi ngày và đem Chúa đến cho mọi người.
Chúa Giê-su chính là niềm vui, ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Có Chúa trong đời là có niềm vui đích thực. Bí tích Thánh Thể mà chúng ta sắp lãnh nhận sẽ ban cho chúng ta chính Chúa Giê-su là nguồn vui và là nguồn mọi ơn phúc. Chúng ta hãy đến với Chúa và xin Chúc giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón nhận niềm vui Giáng Sinh sắp đến.

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2011

Bài giảng Chúa nhật II Mùa Vọng (Văn Hương)

Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng : “Vì loài người chúng tôi và để cứu độ chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Và lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta thể hiện niềm tin này bằng sứ mệnh ngôn sứ mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu Bí tích Thánh tẩy.
Có thể nói, qua các bài đọc chúng ta vừa nghe, chúng ta dễ dàng nhận biết công việc của người môn đệ Chúa. Đó là kêu gọi sự sám hối và loan báo ơn Cứu độ của Thiên Chúa. Tiên tri Isaia loan báo sự giải thoát cho dân Israel đang sống trong sự lưu đầy như sau : “Chúa ngươi phán : Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm… Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn gấp hai lần tội lỗi. Và có tiếng kêu trong hoang địa rằng : Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi ; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng” (Is 40,1-4). Và hơn kém năm thế kỷ sau, nội dung của thông điệp này lại được Gioan Tẩy Giả xướng lên. Ông xuất hiện trong hoang địa, vừa kêu gọi dân chúng sám hối, vừa giúp dân chúng thể hiện sự hoán cải qua việc cử hành phép rửa sám hối cho họ. Đặc biệt, ông loan báo cho dân chúng về Đấng Cứu Thế đang đến gần kề : “Ông rao giảng rằng : Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giầy Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần” (Mc 3,3). Thiết nghĩ, Isaia, Gioan Tẩy Giả đều thành công trong việc khơi dậy nơi dân chúng tinh thần đón nhận Đấng Cứu Thế. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta đã thực sự là gương mẫu của việc không ngừng làm cho bản thân nên hoàn thiện để nhận ơn cứu độ chưa ? Lời nói và việc làm của chúng ta có diễn tả được sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa thế gian không ? Bao lâu chúng ta còn bằng lòng với đời sống hiện tại của mình, vì cho rằng sống như thế là được rồi, tốt rồi nên không cần phải nỗ lực sửa đổi, canh tân để nên thánh và nắm chắc phần rỗi hơn, thì bấy lâu chúng ta chưa chu toàn sứ mệnh ngôn sứ của mình. Chưa thể nói với người khác về Thiên Chúa tình yêu, đã xuống thế cứu độ con người.
Ước gì sứ điệp lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta nhớ : Thiên Chúa kêu gọi chúng ta loan báo Tin Mừng Cứu Độ ; Thời Cựu ước, Ngài nói với con người qua các tiên tri ; Đến thời đã định, Ngài sai Gioan Tẩy Giả đi dọn đường cho Đấng Cứu Thế ; Và ngày nay, Giáo hội (trong đó có chúng ta), tiếp tục sứ mệnh này. Vậy, xin Chúa giúp chúng ta trở nên chứng nhân thực thụ của Tin mừng, là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian.

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

Bài giảng Chúa nhật I Mùa Vọng (Văn Hương)

Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng : Chúa Giêsu sẽ đến vào ngày sau hết để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Và lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống niềm tin này trong tinh thần tỉnh thức sẵn sàng với vị thế của một đầy tớ chờ chủ về.
Có thể nói, Dân Do thái bị cho là bất trung với Thiên Chúa, họ không ngừng vi phạm Giao ước : bỏ Thiên Chúa chạy theo tà thần. Tuy vậy, nơi dân tộc này cũng có nhiều điều để chúng ta học theo, và một trong số đó là lòng mong chờ Chúa đến giải thoát. Và bằng chứng điển hình được tìm thấy trong bài đọc thứ nhất. Tiên tri Isaia không chỉ nói lên lòng khát khao Chúa đến nơi dân chúng, nhưng còn cho thấy nguyên do của tâm nguyện này với một ý thức sâu xa về tình trạng của cá nhân và cộng đoàn : “Lạy Chúa, tại sao Chúa để chúng tôi đi lạc xa đường Chúa, và làm cho tâm hồn chúng tôi trở nên chai đá không còn biết kính sợ Chúa nữa. Vì các tôi tớ Chúa…, xin hãy đoái nhìn lại. Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống…: Này Chúa thịnh nộ, vì chúng tôi đã phạm tội. Chúng tôi đã luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi, thì làm sao sẽ được cứu rỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ và công nghiệp chúng tôi như chiếc áo dơ bẩn” (Is 63,17.64,4b-5). Thiết nghĩ, người Do thái khắc khoải trông chờ Chúa đến, vì họ biết mình đang ở trong tình trạng nô lệ cho tội lỗi, và sự nô lệ này được thể hiện qua việc nước mất nhà tan, bị ngoại bang dầy xéo. Còn chúng ta thì sao ? Bao lâu chúng ta không biết được thực trạng con người gồm thân xác và linh hồn của mình, thì bấy lâu sự mong chờ Chúa đến nơi chúng ta nếu có cũng chỉ là lý thuyết. Do đó, thái độ đầu tiên cần có là khiêm tốn nhìn nhận mình tội lỗi, đang bị ma quỷ kìm tỏa để từ đó khơi dậy lòng mong muốn được cứu thoát. Tiếp theo là không ngừng tự nhắc mình về sự bất ngờ của ngày Chúa đến để luôn ở trong tư thế sẵn sàng. Và sự sẵn sàng này được thể hiện qua những việc làm tiêu biểu sau đây : Thứ nhất là từ bỏ những gì thuộc hạ giới để hướng tâm hồn lên những sự trên trời nơi Thiên Chúa ngự (x.Cl 3,2) ; thứ hai là liên tục canh tân đời sống theo sự hướng dẫn của Tin Mừng ; Và sau cùng là chu toàn bổn phận của người đầy tớ trông coi tài sản chủ trao phó, đó là tất cả những gì chúng ta đang sở hữu và chúng phải được sử dụng theo ý Thiên Chúa.
Xin Chúa mặc vào tâm hồn chúng ta lòng khát mong Ngài, và xin cho lời Chúa sau đây nhắc nhớ mỗi người chúng ta luôn sẵn sàng đón Chúa khi Ngài đến : “Chúng con hãy tỉnh thức, chúng con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp chúng con đang ngủ” (Mt 13,35-36).

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XXXIV Thường Niên (Văn Hương)

Chúa Nhật XXXIV Thường Niên –LỄ KITÔ VUA
Chủ Đề : Yêu Thương Tha Nhân Là Yêu Mến Thiên Chúa.
Matthêu 25,31-46.
----------------------------------------------------------------------------------------
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Mừng lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo hội hướng tâm hồn các giáo hữu đến ngày chung thẩm. Và bài Tin mừng chúng ta vừa nghe cho thấy tiêu chuẩn của phán xét là mối tương quan với Thiên Chúa được biểu lộ qua cách cư xử với tha nhân.
Trong ngày phán xử chung cuộc, Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta có bằng cấp gì, tích lũy được bao nhiêu của cải, hoặc giữ chức vụ nào trong xã hội. Ngài chỉ xét chúng ta có quan tâm và giúp đỡ những người bé mọn nhất không ? Đây là những hành vi gắn liền với tình cảm tự nhiên của con người. Đó là lòng thương yêu đồng loại mà Chúa đặt nơi tâm hồn chúng ta. Bởi thế, không có gì đáng ngạc nhiên, khi những người được thưởng, đứng bên hữu, và những kẻ bị phạt, đứng bên tả đều ngỡ ngàng trước sự luận tội và khen thưởng của Thiên Chúa : “Lạy Chúa có bao giờ chúng tôi thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống ; có bao giờ chúng tôi thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc ; có khi nào chúng tôi thấy Chúa yếu đau hay bị tù đầy mà chúng tôi đến viếng Chúa đâu?”(Mt 25,37-39. 44). Như vậy, phải quả quyết rằng : tất cả những gì chúng ta làm cho tha nhân do sự thúc đẩy hướng thiện của tiếng lương tâm, tức là tuân theo lề luật được Thiên Chúa khắc ghi trong tâm hồn (x. GLHTCG s. 1776). Hay nói cách khác là do lòng khao khát Thiên Chúa nơi con người (x. GLHTCG s. 27), thì có giá trị đem đến ơn cứu độ. Hiến chế Lumen Gentium (Tín lý về Giáo Hội) của Công Đồng Vaticanô II trong số 16 nói như sau : “Những kẻ vô tình không nhận biết Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi”(x. GLHTCG s.847). Thiết nghĩ, chúng ta là những Kitô hữu, nghĩa là thuộc về dân Thiên Chúa. Bởi đó, không thể nói : tôi không biết Thiên Chúa và các giáo huấn của Ngài. Nhưng qua cuộc sống thực tế, xem ra chứng minh ngược lại, nhất là trong tương quan giữa người với người vẫn còn thiếu lửa Đức mến. Có lẽ thực trạng cuộc sống vàng thau lẫn lộn, và người ta thường lợi dụng tình thương để lường gạt, nên chúng ta ngại trao ban, vì sợ làm ơn mắc oán, làm bạn mắc thù, đó là chưa kể đến các việc làm khiến lương tâm cắn rứt, nhưng xét cho cùng, vẫn là chúng ta yêu thương chưa trọn, sống chưa hết tình. Đây là hệ quả của đời sống khô khan, nguội lạnh với Thiên Chúa, và như lời thánh Gioan Tông đồ trong thư thứ nhất của ngài : “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình”(1Ga 5,21). Vì thế, khước từ người nghèo khổ, người cô thế cô thân, không nơi nương tựa, không chốn dung thân là bằng chứng không yêu mến Thiên Chúa. Và như vậy, thì làm sao có động thực thúc đẩy chiếm hữu Nước trời. Và đây là bản án cho những ai sống như vậy : “Hỡi phường bị chúc giữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng”(Mt 25,41).
Kính thưa cộng đoàn,
Chúng ta được phán xét dựa trên tình yêu, một tình yêu rất đơn giản : cho ăn, cho uống, tiếp đón, cho mặc, thăm viếng, săn sóc. Như thế, những cử chỉ yêu thương khiêm hạ và chân thật có một giá trị vô cùng, một giá trị vĩnh cửu. Và danh sách những hành động yêu thương mà Chúa Giêsu kể ra không hạn chế. Đó chỉ là những gương mà chúng ta có thể kéo dài ra tùy theo cuộc sống của mỗi người. Ví dụ : Những người láng giềng của chúng ta thiếu thốn tình bạn, họ cần và chúng ta đem tình bạn đến với họ. Hoặc trong giáo xứ, linh mục cần các bậc phụ huynh phụ trách việc dạy giáo lý và chúng ta chấp nhận cộng tác mặc dù công việc này chiếm khá nhiều thời gian của chúng ta…Nói gọn lại, sống tốt thôi chưa đủ, cần phải làm việc tốt nữa. Tình yêu tha nhân phải khởi đi từ tình yêu Thiên Chúa và quy hướng về Ngài. Các công việc chúng ta làm đối với anh em mình chính là chúng ta làm vì Chúa Kitô và cho Chúa Kitô. Như vậy, những người được vào Nước trời là những người chu toàn Luật Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu diễn tả trong giới răn trọng nhất. Ước gì khi sống sứ điệp lời Chúa hôm nay, chúng ta không chỉ cho người khác thấy lòng mến Thiên Chúa và nhận biết tình yêu của Ngài, nhưng sau này còn được gia nhập hàng ngũ những người nghe lời tuyên phán : “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ”(Mt 25,34).
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta luôn ý thức, Mọi người dù là Kitô hữu hay không, dù biết hay không biết Chúa Giêsu sẽ bị xét đoán trên cùng một tiêu chuẩn : không phải số lời cầu nguyện đã đọc, những hành động thờ phụng... Không làm điều xấu chưa đủ. Còn phải làm điều tốt. Chúng ta ngay từ bây giờ được phán xét bằng điều tốt lành mà chúng ta làm cho những người cần đến chúng ta. Amen

Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XXVIII Thường Niên (Văn Hương)

Chủ Đề : SỐNG ĐỂ KHÔNG TỰ KẾT ÁN..
Matthêu 22,1-14.
----------------------------------------------------------------------------------------
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Chúng ta vừa nghe dụ ngôn Tiệc Cưới trong Tin mừng thánh Matthêu. Qua đó, cho thấy tình yêu của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ kết tội con người, nhưng luôn tạo điều kiện để chúng ta có thể dự phần Nước trời, đồng thời kêu gọi chúng ta xét lại thái độ của mình trước lời mời của Thiên Chúa, chúng ta đáp trả hay từ chối?
Chúa Giêsu trình bày với chúng ta một Thiên Chúa làm đám cưới cho con trai mình. Hay nói cách khác, đây là câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người được diễn tả xuyên suốt toàn bộ Thánh kinh. Tiên tri Isaia dùng hình ảnh tân lang và tân nương để diễn tả nỗi vui mừng của người được Giavê yêu thương giải thoát : “Tôi hân hoan vui sướng trong đức Giavê, mạng tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa tôi thờ, vì người đã mặc cho tôi áo cứu độ. Chiến bào công chính người phủ lên tôi như tân làng chỉnh tề đai mão và tân nương điểm trang phục sức”(Is 61,19). Còn tiên tri Giêrêmia cho biết lý do Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi dân Ngài : “Vì tình, Ta nhớ lại thiết nghĩa thiếu thời của ngươi, mối tình vào buổi đính hôn, làm sao ngươi đã theo Ta trong sa mạc, trên đất không hề thấy có hạt giống gieo”(Gr 2,2). Và hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy tình yêu của Thiên Chúa qua việc thực hiện lời hứa với các tổ phụ của dân giao ước bằng cách sai người đi mời chúng ta dự tiệc cưới. Dụ ngôn làm nổi bật lên hai hạng người. Thứ nhất, những kẻ được mời, tức là dân Do thái, và hiểu rộng hơn là những người được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhưng, tiếc thay, họ đã khước từ với nhiều lý do hết sức đời thường như : “đi thăm trại, đi buôn bán”, không những thế, họ còn hạ nhục giết chết người được Thiên Chúa sai đến. Và tình trạng này vẫn còn diễn ra trong đời sống đức tin của chúng ta. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến dự tiệc Thánh Thể, nhưng còn nhiều người chối từ với những lý do xem ra hết sức thuyết phục như : vì công ăn việc làm, hoặc nơi làm việc xa nhà thờ, hay bởi trời mưa…vv. Đặc biệt, cũng không thiếu những lời lẽ cay nghiệt, đổ lỗi cho người có trách nhiệm về đức tin, dâng thánh lễ. Thiết nghĩ, đức tin của chúng ta là sự đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa chứ không dựa dẫm nơi người này, điều khác. Như hạng người thứ hai, là biểu tượng cho tính phổ quát của ơn cứu độ, họ tiến vào dự tiệc thiên quốc với điều kiện mặc y phục lễ cưới. Tức là phải có tâm hồn xứng hợp. Bởi đó, không gì ngạc nhiên, khi có kẻ bị loại khỏi phòng tiệc vì không đáp ứng yêu cầu này. Thiết nghĩ, nếu mọi người chúng ta ai cũng ý thức được giá trị siêu việt, trang nhiêm, thiêng thánh của Thánh lễ, và tỏ lòng kính trọng bằng chuẩn bị tâm hồn qua y phục bên ngoài thì chắc chắn chúng ta sẽ không thấy cảnh quần đùi, áo thun, hay quần Jean hở thật nhiều lỗ te tua, hoặc những y phục “bảy phần da, ba phần vải” trong nhà thờ. Tóm lại, bài Phúc âm nói đến hai hình thức không đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Sự khước từ trực tiếp thuộc về những kẻ được mời, còn gián tiếp là người không chuẩn bị tâm hồn. Cả hai đều chịu sự trừng phạt của Thiên Chúa. Bị tru diệt, bị nén vào nơi tối tăm, phải khóc lóc nghiến răng. Điều này khiến chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi, đã sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án, nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi”(Ga 3,17.18). Tức là con người tự kết án mình.
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Chúa Giêsu nói dụ ngôn này cho chúng ta, là người đang sống trong Giáo Hội. Ngài cảnh giác chúng ta : đừng tưởng rằng các ngươi đã đến đích, đã an vị ; giữa các ngươi có đủ loại, kẻ dữ người lành, cỏ lùng lúa tốt. Các gia nhân của Ta dã quy tụ các ngươi, họ đã lấy tất cả những gì họ gặt : tốt cũng như xấu. Chẳng phải vì các ngươi ở trong mà các ngươi được xét đoán kẻ ở ngoài, những kẻ đã từ chối không chịu đến. Vì có một cách khác làm sỉ nhục cho Đấng mời gọi chúng ta là định cư trong nhà Người như thể trong nhà của chúng ta, nên quên rằng Người đã mời gọi chúng ta, quên rằng chúng ta ở trong Giáo Hội là nhờ ân sủng thuần túy, quên rằng chỉ có cách sống đạo của chúng ta mời định đoạt về số phận được tuyển chọn cuối cùng. Thiên Chúa mời chúng ta dự tiệc của Ngài không những là qua tiếng nói của Giáo Hội hay các linh mục, nhưng còn qua bất cứ một người vô danh nào mà chúng ta biết lắng nghe, qua một biến cố lay động cuộc sống, qua một thử thách mà chúng ta trải vượt thắng, qua một niềm vui mà chúng ta được thưởng thức. Trong mức độ mà những con người và các biến cố ấy kêu gọi chúng ta, thúc bách chúng ta phản ứng, buộc chúng ta chọn lựa sống đạo, vì đó chính là các gia nhân đến nài xin tự do của chúng ta, đến thông ban cho chúng ta một Tin Mừng : “Tiệc cưới đã sẵn”. Mạc dù, lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô cùng. Nhưng chúng ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người. Khi chúng ta được linh mục “mời gọi” đến hiệp lễ trong thánh lễ chúng ta nghe Ngài đọc : "Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa". Và chúng ta chỉ có thể nói tiếng “vâng” nhưng trước hết phải nói rằng : “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con... nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết chuẩn bị y phục theo lòng Chúa mong muốn, không chỉ để tham dự tiệc Thánh Thể trong các thánh lễ nơi trần gian, nhưng còn để ngày sau, chúng ta được cùng vào hưởng tiệc cưới Nhà Vua dọn sẵn trên nước trời. Amen

Bài giảng Chúa Nhật XXVIII Thường Niên (Thành Tiến)

DỰ TIỆC CƯỚI
LỜI ĐẦU LỄ
Kính thưa quý OBACE, thánh lễ chính là hình ảnh của bàn tiệc nước trời; và chúng ta là những khách mời được Chúa yêu thương quy tụ dù chúng ta bất xứng. Tham dự thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy tạ ơn Chúa; đồng thời biết chuẩn bị tâm hồn bên trong bằng tâm tình sám hối, chuẩn bị hình thức bên ngoài qua cách ăn mặc đứng đắn và ngồi vào vị trí xứng hợp.
II. GIẢNG
Kính thưa quý OBACE,Trong những ngày cuối năm này, chúng ta hay nhận được thiệp mời đi dự tiệc cưới. Khi mời chúng ta đi dự tiệc, gia chủ muốn nói lên mối liên hệ thân tộc, thân thiết hay thân tình với ta. Tham dự bữa tiệc là chúng ta chia sẻ niềm vui và đáp lại tấm chân tình đối với gia chủ. Cách đây 2000 năm, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh đó để nói lên tiệc cưới nước trời.Trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể, chúng ta thấy: chủ tiệc không phải là một người tầm thường nhưng là Đức Vua. Tiệc cưới này không đơn giản như bao bữa tiệc của người bình dân, nhưng là tiệc cưới của Hoàng tử. Chỉ nguyên việc biết mình là người được mời có lẽ đã làm cho khách mời phải lấy làm vinh dự biết là chừng nào. Tuy nhiên, càng suy nghĩ về dụ ngôn tiệc cưới, chúng ta càng thấy có nhiều điểm bất thường, thậm chí khiến chúng ta phải bất bình. Trước hết là sự thờ ơ của những khách mời. Được mời đến dự một tiệc cưới quan trọng đặc biệt như vậy, thế mà ở đây, những người được mời tỏ ra thờ ơ; họ chỉ quan tâm đến công việc thường nhật của mình. Người thì đi thăm trại, kẻ thì lo buôn bán…Hành động của các khách mời càng làm chúng ta ngạc nhiên khi nhục mạ và giết các đầy tớ của vua, những người đến mời họ dự tiệc cưới? Điểm cuối cùng khiến ta lấy làm lạ đó là tất cả những người được mời đều từ chối, chẳng một ai chịu dự tiệc. Thật ra, khi kể lại dụ ngôn có nhiều điểm bất thường như thế, Chúa Giêsu muốn nêu lên một thực tế chua xót: Lời mời của Chúa đã bị dân Israel, dân Ngài yêu thương tuyển chọn, từ chối. Khách mời không chỉ từ chối lời mời mà còn giết những sứ giả của Đức Vua. Đó là điều đã xảy ra trong lịch sử dân Israel. Các đầu mục Do thái đã giết hại các tiên tri Chúa gửi đến.Câu chuyện không dừng lại ở đây nhưng mở ra một trang mới. Phần tiếp theo cho chúng ta thấy tấm lòng bao la của Thiên Chúa. Một Vị Vua yêu thương không mệt mỏi. Với tấm lòng nhẫn nại vô biên, Ngài muốn chia sẻ, thông ban hạnh phúc cho muôn người. Tiệc cưới của giao ước mới chính là tiệc cưới của Hoàng tử Giêsu. Khách mời là mọi dân tộc, mọi người bất luận tốt xấu. Đó chính là hình ảnh của Giáo Hội được Chúa Giêsu quy tụ để dự bàn tiệc nước trời. Qua chi tiết này, thánh sử Matthêu muốn diễn tả một thực tại: Trong Giáo Hội Chúa thiết lập, vẫn luôn còn đó người tốt kẻ xấu. Kính thưa quý OBACE,Với Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta đã đáp lại lời mời gọi của Chúa, đã được khoác chiếc áo trắng để vào dự tiệc. Lời đáp trả ấy không chỉ cất lên một lần là đủ mà cần phải cất lên liên tục. Hơn nữa, chỉ lời đáp trả mà thôi cũng không bảo đảm cho ta được ngồi vào bàn tiệc. Số phận của những kẻ không mặc áo cưới bị loại ra ngoài là một bài học cho mỗi chúng ta.Thật vậy, mỗi ngày, mỗi tuần, Chúa đều mời gọi chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta đã mau mắn đáp lời hay viện lý do: bận thăm trại bò, đang bận làm ăn, hay mắc buôn bán ngoài chợ mà chối từ lời mời? Thực tế cho thấy, nhiều người không chỉ bỏ qua cơ hội tham dự thánh lễ hằng ngày mà ngay cả ngày CN, họ cũng viện đủ lý do để bỏ lễ.Rồi, khi đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ -nghĩa là dự tiệc mà của ăn là chính Thịt Máu Chúa đảm bảo sự sống đời đời- nhiều người, nhất là người trẻ, đã kiếm một góc nào đó bên ngoài ngồi nói chuyện, hút thuốc, nhìn thực khách ăn uống?“Y phục xứng ký đức”: Tiệc Thánh Thể không phải là yến tiệc của người đời, nên khách mời cần chuẩn bị y phục cho xứng đáng. Nhiều người nhầm lẫn điều này nên khi dự lễ, họ ăn mặc quá xềng xoàng hoặc hở hang không thích hợp. Đặc biệt, y phục đẹp nhất không chỉ là chiếc áo trắng bên ngoài mà là tâm hồn sạch tội. Mỗi chúng ta có biết gìn giữ chiếc áo trắng tâm hồn sạch đẹp hay đã để vấy bẩn bởi biết bao tội lỗi…? Nếu giờ này Chúa cho người kiểm tra y phục liệu chúng ta có còn được ngồi lại dự tiệc hay bị loại ra ngoài?Kính thưa quý OBACE,Ai trong chúng ta cũng muốn được ngồi vào bàn tiệc. Không phải chỉ là hôm nay hay trong cuộc đời này mà còn kéo dài vô tận trên thiên quốc. Đó cũng là hình ảnh bữa tiệc mà tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất đã loan báo: “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thiết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc...”. Ước gì chúng ta nhận ra tình thương của Chúa và giá trị của lời mời; để chúng ta, dù cuộc sống bôn ba vất vả, cũng biết thu sếp dự tiệc Thánh Thể mỗi ngày hay ít là mỗi tuần; cùng biết chuẩn bị tâm hồn, y phục xứng đáng. Để ngày ấy đến, chúng ta thực sự được Chúa tiếp đón và được mời vào bàn tiệc đời đời trên nước trời. Amen.

Bài giảng Chúa Nhật XXVII Thường Niên (Lễ Mân Côi) (Văn Hương)

Chủ Đề : SỐNG LỜI KINH MÂN CÔI.
Luca 1,26-38.
----------------------------------------------------------------------------------------
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, Giáo hội chọn đọc cho chúng ta nghe trích đoạn lời Chúa trong Tin mừng thánh Luca, thuật lại biến cố truyền tin, và với hai tiếng “xin vâng” của Đức Maria, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Qua đó, nhắc lại truyền thống của Hội thánh được thể hiện nơi các vị Giáo hoàng khi nói rằng Chuỗi Mân Côi là bản tóm lược toàn bộ Phúc âm, với trọng tâm là mầu nhiệp “Nhập thể Cứu chuộc”, trong đó “lặp đi lặp lại lời ngợi khen Chúa Kitô”(MC 46).
Khi đọc kinh Kính mừng, chúng ta thấy vang vọng lời sứ Thần Gabriel chào Đức Maria : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”(LC 1,28). Lời chào này gợi lên một số sự kiện trong Cựu ước loan báo về Đấng Cứu Thế và sự hiện diện của Ngài nơi dân tộc, nơi những kẻ được tuyển chọn. Và đây là dẫn chứng tiêu biểu : Tiên tri Xôphônya tuyên sấm cho những người Israel còn sót lại về ngày Đức Chúa thực hiện lời hứa với các tổ phụ đã và đang đến gần : “Hãy reo lên vui mừng, hỡi Nữ Tử Sion ! Hãy ca hát mừng vui, hỡi Israel…Thiên Chúa, Chúa ngươi đang ngự giữa ngươi là Đấng Cứu Độ uy quyền”(Xp 3,14-17). Như thế, việc Đức Maria được chào kính một cách trân trọng không chỉ nói lên sự ưu ái vững bền mà Thiên Chúa dành cho Mẹ, nhưng còn cho thấy Mẹ là hiện thân của dân tộc được Thiên Chúa ưu tuyển và yêu thương, mà dấu chỉ để nhận biết, đó là Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Bởi đó, chúng ta mới lý giải được tại sao Mẹ đã chu toàn một cách xuất sắc sứ mệnh được trao Phó, một sứ mệnh vượt quá mọi khả năng nhân loại, và chính Mẹ cũng nhận biết như vậy : “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”(Lc 1, 34). Điều này khiến chúng ta liên tưởng đến Môisê, khi ông lo lắng vì trách nhiệm được giao thì Thiên Chúa đã phán với ông : “Ta sẽ ở với ngươi”, hoặc như tiên tri Giêrêmia khiếp sợ khi được sai đi nói lời Giavê, đã tìm cách chối quanh : “A ha ! Lạy Đức Chúa, này tôi đâu biết nói, vì tôi chỉ là một đứa trẻ !”, nhưng Giavê phán bảo : “Đừng nói! tôi chỉ là một đứa trẻ ! Vì hễ Ta sai ngươi đến với ai, ngươi sẽ đi…Trước mặt chúng, ngươi đừng sợ, vì có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”(Gr 1,6.7a.8). Thiết nghĩ, chúng ta cũng có thể làm được những việc trọng đại, nếu chúng ta chấp nhận để cho Chúa ở trong cuộc đời của mình như Mẹ Maria. Mặc dù cuộc sống hiện tại của chúng ta bị chi phối rất nhiều bởi của ăn, của để, bởi những nhu cầu giải trí, vui chơi… nói chung bởi xu hướng của thời đại, đồng thời chúng ta có khuynh hướng thâu tóm tất cả về mình, nên nhiều khi chúng ta nai lưng với công việc thế gian và bỏ quên công việc của Thiên Chúa. Chúng ta chạy theo tiếng gọi của trần thế và làm ngơ trước tiếng gọi từ trời cao. Tuy nhiên, “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”(Lc 1,37), do đó, chỉ cần chúng ta thành tâm và cố gắng, Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì còn lại. Và để được như vậy, chúng ta hãy học nơi Đức Maria sống tuân theo ý Chúa, mà kinh Mân Côi là phương thế giúp chúng ta thực hiện. Vì như các vị Giáo hoàng của Giáo hội đã từng trải nghiệm và khẳng định : Kinh Mân Côi được quần chúng bình dân yêu thích, là phương thế vun trồng đức tin, là lời cầu nguyện khiêm nhượng, và có một sức mạnh truyền giáo mãnh liệt, cũng như đề cao vai trò của Mẹ Maria, đồng thời như lời Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói : “Chúng ta gửi gấm trong những trục kinh mân côi này tất cả những gì làm nên cuộc sống cá nhân, gia đình, quốc gia, Giáo hội và nhân loại. Những chục kinh chất chứa những vấn đề cá nhân, xóm ngõ và đặc biệt là những người thân yêu nhất của chúng ta. Như thế trong lời kinh Mân Côi đơn sơ có mang nhịp sống của nhân loại”
Kinh thưa quý ông bà và anh chị em,
Giáo hội vẫn luôn coi kinh Mân Côi là lời cầu nguyện và kho báu của mình. Mười hai vị Giáo hoàng gần đây đều nồng nhiệt cổ vũ phép lần hạt Mân Côi và tập tục dành riêng tháng 10 để đọc kinh này. Trong tông huấn về Lòng Tôn Sùng Đức Maria của cố Giáo hoàng Phaolô VI, ban hành ngày 2 tháng 2 năm 1974 quả quyết : “Nếu lần Chuỗi Mân Côi cách thư thả, trầm tưởng thì sẽ là một lời kinh chiêm ngắm, suy niệm về những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Kitô qua tâm hồn của Đấng ở gần Chúa hơn hết, và như vậy mới khám phá ra những kho tàng vô tận của phép lần hạt”(MC 47). Ước gì những lợi ích của việc suy ngắm các mầu nhiệm cứu độ mà chúng ta chiêm ngưỡng khi đọc kinh Mân Côi được thánh Bênađô nói sau đây sẽ giúp chúng ta sống đạo một cách hiệu quả : “Ngôi Lời đã làm người, và cư ngụ giữa chúng ta. Người chắc chắn cư ngụ trong tâm hồn chúng ta bằng đức tin, Người cư ngụ trong trí nhớ của chúng ta, trong tư tưởng chúng ta, và Người ngự xuống tận trong trí tưởng tượng của chúng ta… Thiên Chúa, Đấng chúng ta không thể hiểu nổi và không thể đến được, nay đã muốn cho loài người có thể hiểu được Ngài, cho loài người có thể thấy được Ngài, cho loài người có thể nắm bắt được Ngài nhờ tư tưởng. Bạn tự hỏi : Bằng cách nào ? Chắc chắn bằng việc ngài nằm trong máng cỏ, đặt mình trong lòng đức Trinh Nữ, giảng trên núi, cầu nguyện thâu đêm; cũng như chịu đóng đinh trên thập giá… và cuối cùng bằng việc sống lại ngày thứ ba, và cho các Tông đồ xem các dấu đinh của mình… Suy ngắm những biến cố này là chính sự khôn ngoan, và tôi cho rằng trí thông minh đích thực hệ tại việc gợi nhớ lại sự dịu dàng của những biến cố ấy… sự dịu dàng mà Đức Maria đã kín múc dồi dào từ trên trời, để đổ xuống cho chúng ta.”
Xin Chúa cho chúng ta qua kinh Mân Côi nhận biết Con Chúa nhập thể. Nhờ cuộc khổ nạn và thập giá của Người, và nhờ Đức Mẹ trợ giúp, xin Chúa dẫn chúng ta đạt tới vinh quang phục sinh”. Amen.

Thứ Tư, 5 tháng 10, 2011

Chương trình họp lớp tại Mỹ Tho ngày 17-19/10

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN
KHOÁ 6 (1999-2005)

CHƯƠNG TRÌNH HỌP LỚP LẦN 6
GIÁO PHẬN MỸ THO
(17-18-19/10/2011)

+ Ngày 17-10-2011 :
Có mặt tại nhà chung giáo phận Mỹ Tho lúc 16 giờ
- 17 giờ chào thăm Đức Cha
- 18g 30 ăn tối tại giáo xứ Tân Hiệp (anh Phaolô Cao Xuân Đắc)
- Tối trở về nhà chung nghỉ đêm
+ Ngày 18-10-2011
-06 giờ dâng lễ
-6g30 ăn sáng tại nhà chung
- 07g 30 lên đường đi Đồng Tháp, anh em tự lo đọc kinh sáng trên xe.
- Thăm khu du lịch Gáo Giồng và ăn trưa tại đó
- chiều về xứ Thiên Phước nghỉ ngơi, giao lưu, ăn tối
+ Ngày 19-10-2011 :
- Sáng dâng lễ sáng tại xứ Tràm Chim – ăn sáng và chia tay

Anh em chỉ mang áo alba
Dây stola, nhờ anh em Sài Gòn lo dùm cho anh em.
Anh em không cần mang sách kinh phụng.



Đại Diện Anh Em Mỹ Tho
Kính báo

Giuse Trần Thanh Long

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XXVI Thường Niên năm A (Joskieu)

LỜI NÓI ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM
Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc, đòi đi theo. Mẹ bảo:
- Con ở nhà rồi mẹ về làm thịt lợn cho con ăn!
Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt. Vợ nói:
- Tôi nói đùa nó đấy mà!
Thầy Tăng Tử bảo “
- Nói đùa thế nào? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư?
Tăng Tử nói xong làm thịt lợn cho con ăn.
Chỉ vì một lời hứa bông đùa của người vợ, mà thày Tăng Tử phải quyết định làm thịt lợn cho con ăn.
Người có nhân cách là thế đó! Lời nói phải đi đôi với việc làm. Nói mà không làm, đó là một lời nói vô giá trị.
Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói rất hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời, chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng yêu mến, càng thích những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông.
Hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn về một người cha có 2 đứa con trai. Ông sai chúng đi làm vườn nho. Người con thứ nhất từ chối, về sau hối hận lại đi làm; Người con thứ hai nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Chúa Giêsu muốn ám chỉ các thượng tế và luật sĩ là người con thứ hai. Họ cho mình là chu toàn lề luật, đạo đức hơn người, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không làm. Họ bắt kẻ khác tuân giữ luật lệ nhưng chính họ lại tránh né. Họ chất lên vai dân chúng gánh nặng mà chính họ cũng không thể mang nổi. Tệ hơn nữa, họ đã tự mãn đến độ không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến.
Trái lại, người con thứ nhất được ví như các người thu thuế và những cô gái điếm. Họ là những người tội lỗi công khai, bị loại ra khỏi hội đường và bị gạt ra bên lề xã hội. Nhưng họ đã nghe lời Chúa, thành tâm sám hối và tin vào Chúa Giêsu là Đấng cứu thế, nên họ xứng đáng được vào nước trời như lời Chúa nói với các nhà lãnh đạo Do thái giáo : “Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.
Như thế Nước Thiên Chúa thuộc về những ai có niềm tin. Tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng được Chúa Cha sai đến. Niềm tin ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê khẳng định :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Đức tin không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, nhưng còn phải được minh chứng bằng việc làm. Vì những việc làm cụ thể có sức thuyết phục hơn những lời nói suông. Những công trình trước mắt có giá trị hơn những dự án treo.
Chúa Giêsu không bao giờ nói suông, Người luôn thực hiện trước những điều Người rao giảng. Người dạy các môn đệ và dạy mỗi người chúng ta hãy tránh xa thói giả hình của các luật sĩ và biệt phái, vì “họ nói mà không làm”. Người đã từng tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Chúa Giêsu luôn làm theo thánh ý Cha, và Người mời gọi chúng ta cũng hãy làm như vậy : “Không phải mọi kẻ nói với Thầy : Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, nhưng kẻ làm theo ý Cha Thầy trên trời, kẻ ấy mới được vào mà thôi”.

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XXV Thường Niên năm A (Joskieu)

LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa lỗi cho 2 vị sĩ quan này. Vua cho gọi hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ thưởng công cho họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, nhưng người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng : nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị lý luận: Thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tị nói trước. Người này lại nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố: “Tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Người ghen tị thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tị trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tự hủy diệt chính mình.
Nghe bài Tin mừng hôm nay, chắc chắn chúng ta cũng có chung một suy nghĩ như những người thợ làm vườn nho cho ông chủ là : Ông chủ không công bằng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm việc vất vả suốt cả ngày. Trước lời phàn nàn của những người thợ làm vườn nho, Chúa Giêsu đã nói lên quan điểm của Người : Chúa hoàn toàn tự do làm theo lòng quảng đại của mình, và khi làm như thế, Chúa không làm thiệt hại cho ai cả : “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu?”. Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì ghen tị và thiếu lòng nhân từ.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để nhắc cho những người Do thái cũng như cho mỗi người chúng ta hôm nay, chúng ta đừng so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công trạng của con người. Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người. Ngài muốn cho mọi người được ơn cứu độ chỉ vì Ngài yêu thương con người. Còn chúng ta thì dễ bị cám dỗ, ghen tị, ích kỷ, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ có được những may mắn, thuận lợi hơn chúng ta? Chẳng hạn như khi thấy một người ngoại giáo sắp chết mà được Rửa tội, chúng ta thấy họ thật may mắn vì được Chúa đón nhận vào thiên đàng vào giờ phút cuối (giờ 11 hay phút 89!) mà không cần biết cuộc đời họ trước đó như thế nào. Chúng ta cũng sẽ nghĩ rằng : Mình giữ đạo từ bé mà cuối cùng chẳng hơn gì họ! Thánh Phaolô đã nói : “Làm bởi công sức của chúng ta, nhưng chính Chúa mới ban ơn”. Chúa luôn cư xử với mọi người bằng tình thương, tất cả vì lợi ích của chúng ta. Xin cho chúng ta nhận ra tình thương của Chúa để chúng ta cũng biết bao dung, quảng đại với mọi người.
Đọc lại dụ ngôn : giá như ông chủ trả cho người làm một giờ ít tiền hơn, thì chắc không có chuyện gì xảy ra. Trong câu chuyện, chúng ta thấy ông chủ không có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông cũng trả một quan tiền cho người mới làm một giờ, là vì lòng tốt của ông và ông có quyền làm như vậy!
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Ngài không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Ngài đã không hành xử theo luật lệ của loài người, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa tình yêu; chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tị với anh em.
Chúng ta hãy nhớ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, chúng ta hãy nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen tị. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Chúa trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tị và giết chết Aben, người anh cả ghen tị với đứa em hoang đàng, không muốn đón nhận người em sám hối trở về, người làm từ sáng sớm ghen tị với kẻ làm giờ thứ 11.
Lời Chúa nói : “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do lòng quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công trạng của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Ngài mà thôi.
Mỗi người chúng ta hãy sống thật với cuộc sống hiện tại của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, và hãy để người khác sống thật như chính họ, để Chúa không lầm chúng ta với kẻ khác vì ơn Chúa ban đủ cho mỗi người chúng ta. Amen.

Thứ Hai, 12 tháng 9, 2011

Bài giảng Chúa nhật XXIV thường niên A (Van Huong)

Chủ đề : Tha thứ như Thiên Chúa.
Matthêu : 18,21-35.
----------------------------------------------------------------------------------------
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại những lời Chúa Giêsu lý giải về vấn đề Phêrô đặt ra : “Thưa Thầy, nếu anh em cứ con xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần, có phải bẩy lần không?”(Mt 18,21). Và qu dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót”(Mt 18,23-35), Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống tha thứ để được Thiên Chúa thứ tha (Lc 6,37).
Khi nói phải tha đến bảy lần, có thể, thánh Phêrô cho rằng như vậy là quá nhiều, quá đủ cho kẻ cứ xúc phạm đến mình, nhưng Chúa Giêsu lại đòi hỏi cao hơn nữa : “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”(Mt 18,22), tức là tha thứ không giới hạn. Và Chúa Giêsu đã làm gương về việc này khi Ngài cầu nguyện cho những kẻ hành hạ, đóng đinh Ngài vào thập giá : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23,34). Có lẽ, điều này khiến chúng ta nghĩ thầm : “Chỉ có Thiên Chúa mới tha thứ được như vậy, chứ con người làm sao có thể!”, nhưng lịch sử Giáo hội cho thấy : “Thánh Stêphanô trước khi trút hơi thở cuối cùng đã xin ơn tha thứ cho những kẻ mén đá mình với lời nguyện tương tự như Thầy Giêsu Chí Thánh : “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”(Cv 7,60). Còn thánh nữ Maria Gôrétti không chỉ tha thứ cho Alexanđrô, người đã đâm vào người ngài 14 nhát dao do ngài cự tuyệt không làm điều dâm ô với anh ta nhưng còn nguyện xin cho anh ta ơn sám hối để cùng được ở trên thiên đàng với mình. Và gần với chúng ta nhất là Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngài vừa tha thứ cho kẻ bắn mình, vừa đến nhà tù thăm hắn… Như thế, có thể khẳng định, tha thứ như Thiên Chúa tha thứ không phải là việc không thể làm được, nhưng bởi đâu chúng ta có thể làm được điều đó, thì dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót cho thấy 2 nguyên do :
Trước hết, ông chủ tha cho tên mắc nợ không có gì để trả vì thương hắn. Như thế, tình yêu, lòng thương xót là nguyên nhân cơn bản, là động lực không thể thiếu cho sự tha thứ. Và chúng ta cũng từng có kinh nghiệm này khi chúng ta yêu thương ai, chúng ta dễ tha thứ cho những lỗi lầm của họ. Tuy nhiên, vì con người hạn hẹp, bất toàn nên sự tha thứ đích thực không hệ tại ở tình cảm tự nhiên, do đó sự tha thứ cần phải gắn kết, xuất phát từ Thiên Chúa, và đây là bằng chứng : Khi được vị linh mục hỏi có sẵn sàng thư thứ cho kẻ sát hại mình không, thì thánh nữ Maria Gôrétti trả lời : “Có, vì tình yêu Chúa, con tha thứ…”. Như thế, khi chúng ta mang trong mình tình yêu Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ tha thứ đến cùng, vì như thánh Gioan nói : “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình”(1Ga 4,21b).
Và nguyên do thứ hai, việc tha thứ được xem như bổn phận của chúng ta đối với tha nhân, như thánh Phaolô khuyên dạy giáo đoàn Êphêsô và Côlôsê : “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô”(Ep 4,32 ; x. Cl 3,13). Vì không biết thương tha nợ cho bạn như gia chủ đã thương tha nợ cho mình, nên tên mắc nợ không có gì để trả bị kết tội là độc ác và bị gia chủ trừng phạt. Sau này, khi khuyên dạy các tín hữu tôn trọng lẫn nhau, nhất là tôn trọng những người nghèo, thánh Giacôbê đã khai triển ý tưởng này, ngài nói : “Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn ai thương xót, thì chẳng quan tâm đến việc xét xử”(Gc 2,13)
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Có thể nói, chúng ta đã rất nhiều lần xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn yêu thương tha thứ cho chúng ta, nhưng người khác xúc phạm đến chúng ta, thì thử hỏi có mấy khi chúng ta tha thứ cho họ. Điều này cho thấy nơi chúng ta vắng bóng tình yêu Thiên Chúa. Và nếu đúng như vậy, thì khốn cho chúng ta. Vì như lời Kinh Thánh chép : “Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết : không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó”(1Ga 3,14-15).
Xin Chúa giúp chúng ta biết tha thứ cho nhau, Và xin cho lời Kinh Thánh sau đây nhắc nhớ chúng ta sống sứ điệp của Tin mừng hôm nay trong đời sống thường nhật : “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37). Amen.

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XXIV Thường Niên năm A (Joskieu)

CN 24 TN A THA THỨ
Trong tương quan ứng xử với anh chị em hàng ngày, những ai được coi là nhẫn nhục, chịu đựng thì cũng chỉ tha thứ cho kẻ xúc phạm, làm hại mình đến lần thứ ba là cùng, như người ta vẫn nói: “Bất quá tam; Quá tam ba bận”.
“Nếu Thiên Chúa càng tỏ rõ vinh quang và sự cao cả của Ngài khi Ngài tha thứ thì con người càng nên giống Thiên Chúa khi biết tha thứ cho nhau. Chính vì thế mà Đức Giê-su đòi hỏi phải tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ đến vô cùng, lúc đó mới có thể nói “tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta.” Như thế, tha thứ được xem như đòi hỏi hàng đầu không phải đối với một số thành phần ưu tuyển mà là đối với mọi Ki-tô hữu.
Trong thực tế ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm rằng tha thứ như thế không phải là chuyện dễ dàng: “Tôi sẵn lòng tha thứ, nhưng tôi sẽ không thể quên sự xúc phạm người đó đã làm cho tôi, tôi sẽ không bao giờ tin tưởng người đó nữa.” Tha thứ như thế chưa phải là tha thứ thực sự, chưa phải là tha thứ như Chúa đã tha: xoá sạch cả tội lỗi lẫn hình phạt do tội gây ra và còn phục hồi cho con người địa vị và phẩm giá là người con của Thiên Chúa”. (5 phút suy niệm Lời Chúa-Thứ 5-19 TN)
Tin mừng hôm nay, khi nghe Chúa Giêsu dạy về sự tha thứ, thánh Phêrô muốn biết phải xử trí thế nào khi chính mình bị anh em xúc phạm. Ông đưa ra con số 7, vốn được coi là tượng trưng cho sự hoàn hảo. Nhưng Chúa Giêsu lại vượt hẳn mọi mức độ trong việc tha thứ khi Ngài dạy phải tha thứ đến 70x7; nghĩa là Chúa muốn dạy phải tha thứ hoài, không giới hạn, tha thứ không đòi hỏi một điều kiện nào; bởi vì lý do để tha thứ không phải ở nơi người có lỗi: biết hối hận về lầm lỗi của mình; cũng không phải ở nơi người bị xúc phạm: giàu lòng quảng đại; nhưng ở nơi lòng thương xót tha thứ của Chúa, như trong dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe.
Một nén bạc bằng 6 ngàn quan tiền, tương đương với 6 ngàn ngày công của người Do thái. Chúa muốn làm nổi bật sự khác biệt giữa hai món nợ và hai mức độ tha thứ của con người, để cho chúng thấy được lòng quảng đại của Chúa, và thấy được sự vô lý nơi lòng dạ của con người, khi họ không sẵn sàng tha thứ cho anh em mình.
Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót. Chúa đã rộng lòng tha thứ cho chúng ta là những người mắc nợ Ngài mà không có cách gì trả được. Cảm nghiệm được sự tha thứ của Chúa, chúng ta cũng được mời gọi tha thứ cho anh chị em mình.
Hơn nữa, tha thứ còn là một đòi hỏi của lương tâm, của đức bác ái. Khi chúng ta ý thức mình được Chúa tha thứ trước, thì chắc chắn chúng ta cũng sẵn lòng tha thứ cho anh chị em mình.
Hàng ngày chúng ta đọc kinh Lạy Cha : “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…”. Xin Chúa giúp chúng ta biết tha thứ cho nhau, để lời kinh chúng ta đọc không chỉ trên môi miệng, nhưng phát xuất từ một con tim yêu mến, từ một niềm tin vào Chúa, Đấng luôn yêu thương và tha thứ cho chúng ta. Amen.

Chương trình họp lớp tại Mỹ Tho

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN
KHOÁ 6 (1999-2005)

CHƯƠNG TRÌNH HỌP LỚP LẦN 6
GIÁO PHẬN MỸ THO
(11-12-13/10/2011)

+ Ngày 11-10-2011 :
Có mặt tại giáo xứ Vĩnh Hưng khoảng 8-9 giờ chào Đức Cha Giáo
- 09g30 thánh lễ nhận chức cha sở của anh Phaolô Hồ Minh Tuấn.
- 11g 30 ăn trưa – nghỉ ngơi – giao lưu
- 14 giờ lên đường đi Đồng Tháp
Địa điểm đến giáo xứ Tràm Chim (thị trấn Thiên Phước)
Đón tiếp là anh Aug. Trần Quang Hồng Phúc (phó xứ)
Nghỉ ngơi, tắm giắt, ăn tối tại đây.
+ Ngày 12-10-2011
Sáng dâng lễ tại xứ Tràm Chim, sau lễ ăn sáng
-08 giờ đi du lịch sinh thái khu du lịch Gáo Giồng
-11g30 ăn trưa và nghỉ ngơi tại khu du lịch
-14 giờ lên đường đi về Tiền Giang
Địa điểm nơi đến là nhà chung giáo phận Mỹ Tho.
Ăn tối, café giáo lưu mục vụ, nghỉ đêm tại đây.
+ Ngày 13-10-2011
Ăn sáng lúc 6g30 tại nhà chung
- 08 giờ lên đường ra bến tàu du thuyền về xứ Cồn Bà (27 km đường sông)
(xe cộ sẽ đi đường bộ xuống bến)
Ăn trưa, nghỉ ngơi (có thể tắm sông hay tát mươn bắt tôm tuỳ các đấng thích)
- 16g dâng thánh lễ
Sau lễ sẽ chia tay.


Đại Diện Anh Em Mỹ Tho
Kính báo

Giuse Trần Thanh Long

Thứ Năm, 1 tháng 9, 2011

Bài giảng Chúa nhật XXIII thường niên A (Van Huong)

Chủ Đề : THA THỨ - HIỆP NHẤT : DẤU CHỈ CỦA TÌNH YÊU.
Matthêô : 18,15-20.
----------------------------------------------------------------------------------------
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Lời Chúa chúng ta vừa nghe được trích từ bài giảng lớn thứ tư của Chúa Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng thánh Mátthêu. Đây là những giáo huấn về đời sống “cộng đoàn”. Và qua đó, chúng ta thấy rõ mối giây liên kết mật thiết giữa tội lỗi của một cá nhân với đời sống của cả cộng đoàn, đồng thời cũng quả quyết sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa loài người, khi người ta cùng hiệp nhất, tuyên xưa niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Có thể nói, những lời khuyên của Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay chỉ có thể được hiểu như một biểu thức của tình bác ái. Vì thế, giúp người anh em đang gặp khó khăn, hoặc đưa tay đỡ nâng người anh em đang trong vòng tội lỗi, là một yêu sách của tình yêu, một lòng trung tín với công việc của Thiên Chúa. Và điều này chỉ có thể thực hiện khi chúng ta ý thức được “Đặc tính cộng đoàn của thiên chức con người trong ý định của Thiên Chúa”(Ges 24), mà công đồng Vaticanô II đã nói trong hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay. Đó là con người có bản tính xã hội, và theo ý Đấng Tạo Hoá, Ngài “đã muốn rằng tất cả mọi người phải làm thành một gia đình và đối xử với nhau bằng tình huynh đệ. Bởi vì mọi người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa là Đấng ‘đã cho tất cả nhân loại do một nguyên tổ cư ngụ trên khắp mặt đất’, nên họ đều được gọi tới chung một cùng đích duy nhất là chính Thiên Chúa”(Ges 24). Như vậy, phương thế Chúa Giêsu đề nghị chúng ta để đưa một người lầm lối trở về có thể được áp dụng cho mọi môi trường sống với một tỉ lệ nào đó : Gia đình, nhóm bạn, hiệp hội, đoàn thể, các đồng nghiệp…vv. mà việc sửa lỗi cho nhau được đặt trên nền tảng của lòng mến Chúa và yêu người. Trong những trường hợp bất lực không thể hoán cải hoặc hoà giải một ai đó, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương họ. Bởi vì, giáo lý của Chúa Kitô đòi hỏi chúng ta phải tha thứ và sống giới luật yêu thương với tất cả mọi người, kể cả kẻ thù như Chúa Giêsu dạy : “Các ngươi có nghe lời truyền dạy hãy yêu thương thân nhân mà ghét thù địch mình. Còn Ta, Ta dạy các ngươi : hãy thương yêu kẻ thù nghịch mình, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho kẻ bắt bớ vu vạ cho các ngươi nữa”(Mt 5,43-44). Và Thánh Phaolô cũng nhắc chúng ta : “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” một món nợ không bao giờ trả hết (Rôma 13,8).
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Nếu nhìn việc sửa lỗi anh em của Chúa Giêsu là một cách diễn tả tình yêu thì hiệp thông trong lời cầu nguyện lại là một biểu hiện khác của tình yêu. Khi yêu ai, chúng ta không dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Chúng ta sẽ không mang tư tưởng “đèn nhà ai nấy sáng”, nhưng tìm dịp cảnh tỉnh, nhắc nhở, khuyên bảo họ. Tương quan bác ái này rất cần trong cộng đoàn, trong Giáo xứ. Cứu lấy tha nhân, đừng để họ hư mất là điều Chúa Giêsu muốn nơi chúng ta. Sửa lỗi cho nhau để nhờ đó cộng đoàn “lợi thêm một người anh em”. Chúa Giêsu còn xác định : “Thầy bảo thật các con : nếu ở dưới đất hai người trong các con hiệp ý cầu xin bất cứ sự gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho”(Mt 18,19). Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa sẽ xóa giải mọi bất hòa nơi con người. Chúng ta tin và can đảm sống điều đó, “Vì ở đâu có có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”(Mt 18,20). Thiết nghĩ, trong đời sống thường nhật, chúng ta thấy có những người chuyên xía vào chuyện thiên hạ, thì ngược lại có một số người khác lại kém dấn thân, chỉ biết mình với Chúa hoặc chỉ biết mình với những người thân thuộc. Thế mà Chúa Giêsu dạy tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Chúng ta không thể hững hờ trước tình cảm thiêng liêng của họ. Vì chẳng ai thoát khỏi lầm lỡ hay yếu đuối nên rất có thể một ngày kia người khác cũng sẽ có dịp thực thi bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy đối với chúng ta. Có lẽ họ sẽ sẵn sàng làm việc này, nếu họ đã thấy chính chúng ta thực hiện với tất cả sự tế nhị và nhân ái cần thiết.
Xin Chúa nhắc chúng ta nhớ là tội nhân, yếu đuối và hay lầm lỗi, có khi còn nặng nề hơn người khác. Để nếu vì bổn phận, chúng ta phải sưả lỗi cho tha nhân, chúng ta biết lấy tinh thần bác ái và tôn trọng nhân vị mà cư xử, nâng đỡ hơn là chỉ trích thoá mạ. Xin Chúa cho chúng ta ý thức Chúa tha thứ cho chúng ta từng ngày, ngõ hầu chúng ta biết rộng lượng, bao dung với người khác. Amen

Bài giảng Chúa nhật XXIII thường niên A (Joskieu)

SỬA LỖI ANH EM

Tuân Tử, một hiền triết Trung hoa đã nói rằng: “Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại ta mà thôi”. Chê mà chê thật là sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Là con người ai mà chẳng lầm lỗi. Không ai trên trần gian có thể tự hào mình vô tội. Chính Thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8).
Con người có xã hội tính, không ai sống riêng lẻ một mình, nhưng sống là sống chung với nhau trong một gia đình, một cộng đoàn, một tập thể…mục đích để nâng đỡ, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho nhau.
Trong đời sống chung, trăm người trăm tính, chắc chắn sẽ có những lúc hiểu lầm, xúc phạm đến nhau trong suy nghĩ, lời nói và việc làm…nên việc sửa lỗi cho nhau là cần thiết để xây dựng và phát triển cộng đoàn.
Việc Sửa dạy anh em, sửa sai những lầm lỗi, những khuyết điểm là một việc hết sức “tế nhị, nhạy cảm”, mà nếu không khéo thì thay vì giúp ích cho anh em, lại làm khổ anh em hơn. Đức Hồng Y Fulton Sheen, một vị giảng thuyết nổi tiếng của Hoa Kỳ đã nhận xét rằng : “Chúng ta thường xét đoán ai về 1 điều gì, thì đó là dấu hiệu báo cho chúng ta biết chính chúng ta đang có khuyết điểm ấy”.
Vì vậy, trách người khác cũng là trách mình. Xét đoán người khác cũng là vạch trần những cái xấu của mình, và sửa sai người khác cũng làm cho chính mình tự ái, khó chịu…
Thực tế, ai trong chúng ta cũng có nhiều khuyết điểm, lầm lỗi, nhiều khi chính bản thân chúng ta lại có nhiều thiếu sót hơn những người anh em mà chúng ta muốn nhắc bảo.
Nguyên tắc mà Chúa Giêsu đưa ra : “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi”.
Chúa yêu thương và đặc biệt quan tâm đến từng người chúng ta. Chúa luôn luôn muốn chúng ta thuộc về Người và không bao giờ muốn ai trong chúng ta phải hư đi. Nhắc nhở sửa lỗi anh em, tạo điều kiện giúp anh em trở nên tốt hơn, là Chúa muốn mỗi người chúng ta, cùng với Người, giúp cho người anh em mình trở về đường ngay nẻo chính, tránh đi những sai lầm đáng tiếc và trở thành một con người tốt.
Tình thương của Thiên Chúa luôn tạo điều kiện, cơ hội để mỗi người chúng ta sống tốt hơn. Anh em bên cạnh chính là những người bạn thân sẵn sàng nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta đi đúng đường, như câu tục ngữ của người Việt Nam chúng ta “chị ngã em nâng”.
“Hãy đi sửa dạy nó”. Chúa muốn mỗi người chúng ta khi sống bên cạnh nhau, luôn là những người bạn chân thành, quảng đại và có trách nhiệm với chính những lầm lỗi của anh em mình. Mang thận phận con người mỏng giòn, yếu đuối. Ai trong chúng ta cũng có những sai lầm, tội lỗi. Chính vì thế, việc sửa lỗi cho anh em mình, cũng chính là cơ hội để mỗi người “tự thức tỉnh mình”, khiến chúng ta dễ dàng thông cảm, tha thứ và yêu thương anh em hơn.
Thánh Giacôbê đã nói : “Ai đưa một người tội lỗi ra khỏi sai lầm của họ là đã cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và đã bù đắp được vô số tội lỗi của mình”.
Đạo công giáo là Đạo của tình thương. Chúa Giêsu đã làm người để chia sẻ tình thương của Thiên Chúa cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta chia sẻ tình thương ấy cho anh em.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta luôn ý thức về sự bất toàn của mình, để chúng ta có đủ thiện chí đón nhận những lời nhắc bảo của anh em và luôn sẵn lòng tha thứ. Để chúng ta xứng đáng đón nhận lòng nhân từ thương xót của Chúa, để trở nên những môn đệ đích thực, những người con yêu dấu của Chúa. Amen.

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2011

Bài giảng Chúa nhật XXII thường niên A (Van Huong)

Chủ Đề : TÌNH YÊU : DẤU CHỈ SỰ TỪ BỎ.
Matthêô : 16,21 -27.
----------------------------------------------------------------------------------------
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Ngày nay, chúng ta thấy các trường đại học, cao đẳng, những trung tâm dạy nghề đều chiêu sinh bằng hình thức quảng cáo với những lời lẽ hết sức thuyết phục như : đội ngũ giáo viên ưu tú - dạy giỏi, học viên tốt nghiệp được giới thiệu việc làm, hoặc chỉ với thời gian ngắn, bạn có một ngành nghề trong tay…, còn bài Tin mừng chúng ta vừa nghe cho thấy, cách thức chiêu sinh của Chúa Giêsu có vẻ dị thường : “Ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”(16,24).
Như thế, Chúa Giêsu đòi hỏi nơi những kẻ chọn Ngài làm gia nghiệp điều trái ngược với tâm thức của con người thế gian. Và chúng ta chỉ có thể trở nên môn đệ thực thụ của Chúa Giêsu khi chúng ta có một tình yêu chân thật. Quả vậy, yêu là sẵn sàng hy sinh sự sống bản thân vì người khác như Chúa Giêsu đã thí mạng vì chúng ta. Tình yêu chỉ ở trong những ai biết rung động trước sự túng thiếu của đồng loại. Bởi đó, Thánh Gioan tông đồ nói : “Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết : không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó”(1Ga 3, 14b-15). Thiết nghĩ, trong đời sống thường nhật của người Kitô giáo chúng ta, tình yêu phải được tỏ lộ qua sự trung tín trong đời sống gia đình : là cha, là mẹ, là con cái trong gia đình, ngày hôm nay chúng ta có thật lòng sống để hiến mạng sống mình cho gia đình nho nhỏ của chúng ta hay không ? Chúng ta có dám dẹp bỏ cái tự ái, cái tôi của chúng ta để chúng ta xây dựng hạnh phúc gia đình hay không ? Hay là chúng ta cứ khư khư giữ lấy cái ích kỷ, những suy nghĩ thiển cận của chúng ta để chúng ta phá vỡ hạnh phúc gia đình, phá vỡ hạnh phúc của “nước trời” trong trần gian này ? Hiến ḿnh cho Chúa, hiến ḿnh cho ơn cứu độ, hiến ḿnh cho nhau là cử chỉ rất đẹp, cử chỉ tuyệt vời nhất mà con người dành cho Chúa, cho anh chị em đồng loại. Cử chỉ đó được Thánh Phaolô nhắc cộng đoàn Rôma cũng như nhắc mỗi người chúng ta : “Thưa anh em, v́ Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hăy hiến dâng thân ḿnh làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp ḷng Thiên Chúa” (Rm 12,1a). Ngài c̣n kết luận một cách xác tín : Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người (Rm 1,1b). Như thế, cách thờ phượng xứng hợp mà Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đó là hiến dâng thân ḿnh chúng ta cho Thiên Chúa qua việc phục vụ anh chị em đồng loại của ḿnh. Bởi đó, hăy giữ vững ý thức chia sẻ như Chúa dạy, khi xu hướng của thời đại kích thích sự tích lũy và tiêu xài cho bản thân, đồng thời giữ sự lương thiện trong lời nói cũng như việc làm. Được như thế, chúng ta mới có thể nói như thánh Phanxicô khó khăn về kinh nghiệm của lời Chúa Giêsu : “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống”(16, 25).
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Chúng ta luôn có phản ứng như Phêrô khi phải chạm trán với thập giá, cô đơn, nghèo khổ, đau ốm, bấp bênh tương lai, mất người thân thuộc, bất lực chữa trị tật xấu, tất cả hầu như không thể chấp nhận đối với chúng ta. Thế nhưng, chính đó là cái Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta vác lấy để đi theo Người. Vì thiếu đức tin nên chúng ta thường phẫn uất, bất bình khi gặp thử thách. Như Phêrô, chúng ta không thực sự tin Thiên Chúa thừa quyền năng để làm phát sinh sự sống từ cái chết, thừa nhân hậu để từ chính thập giá làm phát xuất niềm vui. Tuy nhiên, chính hôm trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã nói đến niềm vui của Ngài, lúc mà quân lính rình chực Ngài để bắt lấy. “Kẻ nào mất sự sống mình sẽ tìm được lại”. Đây là mầu nhiệm vĩ đại, mầu nhiệm mà các thánh đã từng kinh nghiệm trong cuộc đời chịu đóng đinh của họ, đó là niềm vui bất khả phân ly với thập giá. Thật vậy, nếu được chấp nhận vì tình yêu, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Điều này không ngừng bị sự khôn ngoan trần gian phản đối, vì trần gian chỉ rêu rao sự tiện nghi và việc chạy theo khoái lạc : luôn hứa ban hạnh phúc nhưng bao giờ cũng chỉ đem đến thất vọng ê chề. Trần gian là kẻ thù không đội trời chung của thập giá. Và chính khi quay lưng với thập giá là trần gian quay lưng với niềm vui, với sự sống đích thực. Trần gian không biết và mãi mãi sẽ không biết rằng niềm vui và đau khổ có thể hòa hợp với nhau khi có sự hiện diện biến đổi của tình yêu. Xin Chúa cho chúng ta ý thức chúng ta sống trên đời này để làm theo ý Chúa, để chúng ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Amen

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

Bài giảng Chúa nhật XXII thường niên A (Joskieu)

THEO CHÚA : ĐƯỢC VÀ MẤT
Có câu chuyện kể như sau:
Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một bụi cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn rất nhanh. Mỗi sáng chúng cất tiếng líu lo chào đón cô. Một ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng, nên cô vội chộp lấy nó, Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ nhìn con chim còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng hót diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm chặt nó lại. Trái lại, để giữ mãi tình yêu thì chúng ta cần phải biết trao ban tình yêu cho người khác.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta : “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được mạng sống ấy”. Cần phải mất đi để được lại.
Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm thời để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái vững bền mãi mãi.
Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của cải đời này, để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại sự sống đời đời.
Thực tế, không phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết, yêu quí nhất; không phải dễ dàng bỏ đi những đam mê, thú vui trần gian.
Chúng ta cần phải khôn ngoan, sáng suốt để nhận ra cái được, cái mất, để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Chúa Giêsu đã đề nghị chúng ta : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đây là một đòi hỏi hết sức nghiêm túc, gắt gao; không phải muốn làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Con đường theo Chúa là con đường hẹp, con đường thập giá và đau khổ. Ngay sau khi Chúa loan báo lần đầu về cái chết của Chúa, Chúa cũng nói cho các môn đệ biết rõ về số phận của các ông khi bước theo Chúa, đó là phải đau khổ và phải chết như Chúa.
Các môn đệ được mời gọi chia sẻ cùng một thân phận với Thầy, đó là phải đi qua con đường hẹp, con đường của khổ đau và cái chết. Nhưng cuối cùng con đường ấy sẽ dẫn đến vinh quang phục sinh (Mt 16, 21). Vinh quang ấy chỉ mua được bằng khổ đau và cái chết tự nguyện. Như thế điều kiện để giữ được sự sống đời sau là dám hy sinh, dám mất sự sống đời này. Đây là một thách đố của đức tin, vì nếu không thực sự tin vào đời sau, thì chẳng ai có can đảm liều mất mạng sống mình.
Cuộc đời này có nhiều điều tốt đẹp, có nhiều giá trị đáng trân trọng. Nhưng đôi khi chúng ta cũng phải hy sinh nó cho những giá trị lớn hơn, cho Đấng là nguồn mọi sự.
Nhiều tôn giáo cũng dạy phải từ bỏ. Trong Kitô giáo, Chúa Giêsu mời gọi những ai muốn bước theo Ngài phải từ bỏ chính mình. Đây là một đòi hỏi quyết liệt, vì từ bỏ tất cả mà chưa từ bỏ chính mình, thì chưa bỏ gì cả. Không phải vì bản thân mỗi người là xấu xa, đáng ghét, nên Chúa dạy phải từ bỏ; nhưng vì chúng ta chỉ là thụ tạo nhỏ bé trước mặt Đấng Tạo Hóa đã dựng nên. Từ bỏ chính mình là đặt mình ở dưới Thiên Chúa, không coi mình là trung tâm, và để cái tôi của mình trọn vẹn tùy thuộc vào ý muốn của Ngài.
Chúa Giêsu đã sống từ bỏ mình như vậy trong suốt cuộc đời trần thế. Ngài luôn sống như một người con thảo, một người được Chúa Cha sai đến để làm theo ý Cha, chứ không theo ý riêng mình. Và chính lúc Ngài từ bỏ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, Ngài lại được phục hồi chính mình và được siêu tôn trên hết mọi sự (Pl 2, 9).
Như thế từ bỏ mình là cách duy nhất để giữ mình cho toàn vẹn. Chúng ta không thể nào yêu mến, phụng sự Chúa và phục vụ anh em mà không từ bỏ chính mình. Từ bỏ một định kiến một chút tự ái, hay một quyền lợi riêng tư, đôi khi cũng khó như phải hy sinh mạng sống mình.
Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.
Các St tử đạo VN đã chấp nhận hi sinh, từ bỏ sự sống đời này, để được lại sự sống muôn đời.
Và gương của nhiều vị thánh khác đã sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu và đáng được Chúa thưởng công trên nước trời. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đều có những cái để từ bỏ, nhưng điều cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi ích kỷ, để được hưởng ngay từ bây giờ niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, nghĩa là chúng ta vác gánh nặng của bổn phận, vác những yếu đuối của người anh em, vác cuộc đời mình mỗi ngày mà theo Chúa cho đến chết. Chính lúc chết đi, chúng ta mới được vui sống muôn đời, và chính Chúa mới là phần thưởng cao quý nhất mà chúng ta mong đợi.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm từ bỏ chính mình, chấp nhận thua kém ở đời này, để được Chúa thưởng công gấp trăm ở đời sau và được sự sống đời đời. Amen.

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2011

Bài giảng Chúa nhật XXI Thường Niên (JosKieu)

CN 21 TN A CHÚA GIÊSU LA AI?
Một lần kia, Đức Giáo hoàng Pio X vào trường Truyền Giáo tại Roma hỏi các thầy Đại Chủng sinh : Ai là người phá Hội Thánh mạnh nhất? Các thầy lần lượt trả lời theo ý kiến riêng của mình : Thưa đó chính là những người cộng sản vô thần! Thưa đó là những người Công Giáo lạc đạo, bỏ đạo! Thưa đó là những người có đời sống xấu xa giống ma quỷ, satan… Tất cả những ý kiến ấy, Đức Giáo hoàng đều lắc đầu. Và ngài lên tiếng khẳng định : “Kẻ phá Hội Thánh mạnh nhất chính là những người Công Giáo ngu dốt về giáo lý”. Họ ngu dốt giáo lý chỉ vì sợ nghe giảng, sợ học giáo lý, sẽ làm ngăn trở công việc làm ăn lo cho nhu cầu vật chất của họ.
Để hiểu biết và yêu mến Chúa, để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, phải học hỏi về Chúa, phải nghe lời Chúa và bước theo Chúa... Vì có hiểu biết rõ về Chúa, chúng ta mới yêu mến Chúa thật lòng và trung thành bước theo Chúa trọn đời.
Trong 3 năm Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng, có rất nhiều người theo Chúa Giêsu, nên sau một thời gian, Chúa muốn trắc nghiệm sự hiểu biết và lòng tin của họ vào Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hỏi các tông đồ: “Người ta bảo Thầy là ai...?”. Người thì nói Chúa Giêsu là Gioan Tẩy giả, kẻ thì cho Chúa Giêsu là Êlia, người khác lại bảo Chúa Giêsu là một trong các tiên tri. Câu trả lời cuối cùng của Phêrô chính là lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Phêrô không hiểu tại sao mình lại nói được như thế, mà là chính Chúa Cha đã mặc khải cho ông biết điều đó.
Chúa Giêsu là Đấng Kitô, có nghĩa là Đấng được xức dầu bằng Thánh Thần để làm tiên tri giảng dạy sự thật, làm tư tế thánh hóa nhân loại và làm vua cai trị muôn loài.
Còn đối với mỗi người chúng ta : Chúa Giêsu là ai? Có lẽ chúng ta sẽ lúng túng, hoặc lo sợ không dám trả lời vì chúng ta yếu lòng tin, chưa hiểu biết rõ về Chúa Giêsu.
Là Kitô hữu, nhờ BT rửa tội, chúng ta cũng được xức dầu bằng Thánh Thần để trở nên con Thiên Chúa và lãnh nhận sứ mạng làm chứng cho Chúa ngay trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thật lòng, chúng ta phải siêng năng tham dự thánh lễ, chăm học giáo lý, đọc Thánh Kinh hằng ngày, để có thể hiểu biết về Chúa và can đảm làm chứng, giới thiệu Chúa cho người khác bằng chính niềm tin của mình.
Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, giúp chúng con mỗi ngày hiểu biết Chúa nhiều hơn và yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.

Bài giảng Chúa nhật XXI Thường Niên (Văn Hương)

Chủ Đề : SỐNG THEO THẦN KHÍ.
Matthêô : 16,13-19.
----------------------------------------------------------------------------------------
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Chúng ta vừa nghe thánh Matthêo thuật lại việc Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16). Qua đó mời gọi mỗi người chúng ta sống đức tin hàng ngày với sự hướng dẫn của Thần Khí.
Lời Chúa Giêsu khen ngợi Phêrô : “Hỡi Simon, con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 16,17) cho thấy : đức tin là ân huệ Chúa ban, mặc dù con người thật sự có thể nhận biết Thiên Chúa nhưng họ không thể không sai lầm nếu không có Thiên Chúa giúp. Bằng chứng là những người Do thái, với tài sức của mình, họ chỉ nhận ra Chúa Giêsu là một con người tài giỏi, có những đặc điểm giống các bậc tiền nhân như : Gioan Tẩy Giả, Êlia, Giêrêmia hay một tiên tri nào đó. Và họ hoàn toàn không biết gì về sứ mệnh cũng như thiên tính của Ngài. Điều này không chỉ nói lên sự giới hạn của lý trí con người, nhưng còn cho thấy xu hướng chung của nhân loại, vì sống giữa thế gian nên quy chiếu tất cả trong nhãn quan thế gian. Hay nói như thánh Phaolô trong thư gửi Rôma chương 8 câu 5 : “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt”(Rm 8,5). Quả vậy, trí tuệ con người dứt khoát không thể định nghĩa Thiên Chúa như lời Chúa Giêsu từng khẳng định : “Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha ; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho" (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về Đấng Tối Cao : “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các ‘lý do tự nhiên’” (Gl 1,15-16). Bởi đó, để nâng con người lên tầm mức siêu nhiên, đồng thời cứu độ con người. Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm Thánh Ý Ngài, để họ có thể tham dự vào các sự tốt lành thuộc về Ngài mà trí khôn con người không bao giờ đạt tới.(x. DV 2.6), cụ thể là sứ mệnh của Phêrô : “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc : và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”(Mt 13,18.19). Có thể nói, qua đức tin của Phêrô, các Tông đồ đã tách khỏi đám người Do thái cứng tin, làm thành nhóm còn lại sẽ nhận lãnh ơn cứu độ mà các tiên tri đã loan báo. Và từ đây, Chúa Giêsu mới có thể ủy thác cho Phêrô quyền “cầm buộc và tháo cởi", nghĩa là quyền thu nhận hoặc loại trừ khỏi Nước thiên sai, hay hơn nữa, quyền quy định trong tất cả những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đoàn thiên sai đòi hỏi, y như trong sách Đanien, các thánh của Đấng tối cao đã được thông ban các đặc quyền của Con người. Quyền cầm giữ chìa khóa này, do Thiên Chúa thương ban, dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Đức tin của chúng ta đến từ Thiên Chúa, và cũng như Phêrô năm xưa, nếu không được Thần Khí soi dẫn thì đời sống đạo của chúng ta sẽ bị những quan niệm thế gian chi phối. Lời Chúa Giêsu quở trách Phêrô khi ông tỏ thái độ không chấp nhận cuộc thương khó - phục sinh của Ngài là một minh chứng cụ thể : “Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”(Mt16,23). Như vậy, để tuyên xưng đức tin như Phêrô được Chúa Cha mạc khải và không nhìn Thiên Chúa với nhãn quan nhân loại như ông, chúng ta phải cởi bỏ con người vốn yếu đuối bất toàn, vì như thánh Phaolô nói : “hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng Thiên Chúa, tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa…những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa”(Rm 8,5-8).
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết sống niềm tin của mình theo sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa, để cuộc sống thường nhật của chúng ta không chỉ là lời tuyên xưng “Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng còn mang lại cho tha nhân Tin mừng cứu độ. Amen

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XIX Thường Niên (Văn Hương)

LẠY CHÚA XIN CỨU CON.

----------------------------------------------------------------------------------------
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Chúng ta vừa nghe trích đoạn lời Chúa trong Tình mừng Thánh Matthêu thuật lại cuộc thần hiện dành riêng cho các môn đệ, “những kẻ ở trong thuyền”, nghĩa là cho Giáo Hội của Đấng Phục sinh : trong Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa cứu thế của thời Xuất hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những luồng nước khủng khiếp hằng rình chực nuốt lấy họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện cứu nguy của Người giữa cơn bão táp là nền tảng niềm tin của các tín hữu và cho phép họ nói lên cách vững lòng : "Ngài thật là Con Thiên Chúa".
Điều đã xảy đến cho Phêrô, thủ lãnh các sứ đồ, sẽ mãi là kiểu mẫu và gương soi cho mọi kẻ tin. Ở đây, Phêrô đại diện toàn thể Giáo Hội đang đứng trước mặt Thầy mình. Giáo Hội biết rằng mình được bảo đảm vượt thắng mọi thử thách nguy biến, rằng mình sẽ chẳng bao giờ đắm chìm, mất hút trong giòng lịch sử, với điều kiện cương quyết giữ vững đức tin. “Nếu không gắn bó với Ta, các ngươi sẽ chẳng đứng vững được " (Is 7, 9). Điều này có giá trị đối với dân Giao ước mới như đối với dân Giao ước cũ.
Tin là nhảy xuống nước để đi gặp Chúa Giêsu. Nếu lúc ấy chúng ta sợ, thế của chúng ta sẽ trở nên nguy hiểm hơn lúc ta bằng lòng ở lại trên thuyền với các kẻ khác. Một khi đã liều, thì phải liều cho đến cùng tận. Nếu không nỗi sợ hãi sẽ nhận chìm ta. Tuy nhiên, dù bấy giờ sợ hãi, dù không còn sức tin tưởng trước cơn bão hoài nghi và chướng ngại, ta vẫn còn có thể kêu lên: "lạy Chúa, xin cứu con". Và Người sẽ không bỏ lỡ cơ hội để nói với ta: Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ !
Phêrô bắt đầu chìm xuống "lúc thấy gió thổi" (c.30), ông đã chia trí không nhìn đến sự hiện diện trấn an của Chúa Giêsu. Nhưng ông lại được cứu một khi quay nhìn về Người. Thiết nghĩ, lời kêu cứu của Phêrô : "Lạy Chúa, xin cứu con với" cũng phải là lời đầu tiên trên môi miệng mỗi người trong chúng ta khi gặp phải bất cứ nguy hiểm hay khó khăn nào. Vì đúng như miệng người đời vẫn nói, cuộc sống chúng ta là một chuỗi "lên voi xuống chó", một sự thay đổi không ngừng giữa bão táp và yên lặng, giữa vui mừng và đau khổ, giữa hạnh phúc và khốn cùng, v.v… Nhưng trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy luôn giữ lòng trung tín và tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đó chính là vấn đề trọng yếu. Bởi vì chúng ta luôn vững tin rằng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta, luôn đồng hành với chúng ta, luôn hiện diện bên chúng Ta. Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng lặng yên. Người không cần ra lệnh như đã làm trong cơn bão táp (8, 26). Sự hiện diện của Chúa Giêsu đủ sức đem lại yên tĩnh và chế ngự biển cả cuồng điên. Trong đời ta cũng thế. Nếu biết đặt Chúa Giêsu ở trung tâm đời mình như một hiện diện đích thực và sinh động, ta sẽ được an bình nội tâm, dù bên ngoài phải tư bề sóng gió.
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Là con người, tự mình chúng ta không thể làm được gì cả, nhưng cùng với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ làm được tất cả. Bởi vì vũ trụ hiện hữu được là nhờ Người và trong Người. "Không có Chúa Giêsu thì chẳng có gì được tạo thành" (Ga 1,3). Vậy, cũng như việc Người đã làm cho năm chiếc bánh hóa nhiều đến nỗi đủ cho hơn năm ngàn người ăn no, phép lạ Người bước đi trên mặt nước hồ như đi trên đất liền, là một bằng chứng hùng hồn nói lên quyền tối thượng của Thiên Chúa trên tất cả mọi tạo vật và một điểm tựa vững chắc, củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vậy, "Lạy Chúa, xin cứu con với!" phải là lời cầu xin duy nhất đầu tiên mà chúng ta dâng lên Thiên Chúa trong mọi nỗi túng quẩn và cơ cực của chúng ta, chứ không phải chạy theo tìm an ủi nơi các thứ "thần" giả dối khác, như thần rượu, thần ma-túy, thần á-phiện hay những phương tiện bịp bợm khác, những thứ chỉ đưa dẫn những kẻ liên hệ vào trong một ngõ cụt không có lối thoát của cuộc sống.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết trở về cùng Thiên Chúa, tin tưởng tìm nương tựa nơi Thiên Chúa, vì Người là con đường duy nhất dẫn tới sự cứu rỗi, nếu người ta không muốn bị quanh quẩn trong ngõ cụt của định mệnh mình. Chấp nhận sự bất toàn và khả năng giới hạn của mình, cũng như biết tin tưởng phó thác vào sự trợ giúp của Thiên Chúa là một sự chọn lựa khôn ngoan và hợp lý mà mỗi người trong chúng ta cần phải quyết định, bởi vì sự hạnh phúc chân chính của chúng ta đều tùy thuộc vào đó. Amen

Bài giảng Chúa Nhật XIX Thường Niên (JosKieu)

Đừng sợ
Thánh Mactinô thành Tua, hồi còn trai trẻ, một lần đi qua ngọn núi Anpơ, Ngài bị rơi vào tay bọn cướp. Chúng lấy hết hành lý và tiền bạc của Ngài. Một tên cầm dao kề vào cổ Ngài và đòi giết Ngài. Ngài vẫn đứng yên chờ chết. Dáng vẻ bình tĩnh và can đảm của Ngài đã khiến tên đầu đảng giật mình thán phục. Hắn vội chạy tới giật phăng con dao và hỏi Ngài tại sao không tỏ vẻ sợ hãi gì hết khi cái chết nằm kề bên cổ.
Ngài trả lời cho bọn chúng rằng: đã có Thiên Chúa hằng thương yêu săn sóc Ngài lúc còn sống cũng như khi chết, thì cái chết có ý nghĩa gì mà Ngài phải sợ.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng quá vui mừng phấn khởi. Còn Chúa Giêsu thì Ngài biết rõ những dự tính của họ. Chúa không muốn người ta coi Chúa như một Đấng ban ơn cho họ được no nê cơm bánh, Chúa cũng không muốn người ta đến với Ngài chỉ để xin ơn thỏa mãn những nhu cầu vật chất của họ.
Chúa đã ra lệnh cho các tông đồ phải lên thuyền sang bờ bên kia ngay lập tức. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông cũng mong đợi ngày Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng cứu thế của Ngài, để các ông có thể được dự phần với Thầy hoặc được thăng quan tiến chức…, cơ hội đó hôm nay đã đến nhưng Chúa lại từ chối. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Hình ảnh các tông đồ phải chống chọi với sóng biển vì ngược gió cũng diễn tả được một phần nào tâm trạng thất vọng của các ông.
Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, ngài ở lại bờ bên này, nhưng vẫn theo dõi các ông không những bằng ánh mắt, mà bằng cả tấm lòng khi Ngài lên núi và suốt đêm cầu nguyện cho các ông. Ngài thấy các ông chèo thuyền vất vả vì ngược gió. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông để các ông hiểu rằng : Ngài có quyền năng trên vũ trụ vạn vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng không phải là chúng ta bắt Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa. Ngài vẫn hiện diện bên cạnh và sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài, và như thế tâm hồn chúng ta sẽ gặp được bình an.
Vào năm 1978, lúc khởi đầu triều đại Giáo hoàng, ĐGH G.P II đã ngỏ lời với thế giới : “Những ai trong anh em vẫn may mắn còn có đức tin, vẫn đi tìm Thiên Chúa, những ai đang bị sự nghi ngờ xâu xé. Đừng sợ hãi! Hãy tin nhận Chúa Giêsu và nhận lấy quyền lực của Ngài. Đừng sợ hãi! Hãy mở cửa đón nhận Chúa Giêsu, vì Ngài là sức mạnh chữa lành mọi sự dữ… Đừng sợ hãi! ĐGH Benêdic 16, trong bài giảng khai mạc sứ vụ mục tử, Ngài cũng lấy lại tư tưởng của ĐGH G.P II : “Các con đừng sợ, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng ta sẽ gặp được sự sống thật”.
Đừng sợ! Đó là câu nói đã trở nên nổi tiếng của 2 vị lãnh đạo Giáo hội, và là phương châm cho mọi hoạt động của các Ngài. Đừng sợ! Đó cũng là câu nói được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin mừng : “Các con đừng sợ ……”. Chúa Giêsu đã nhắc nhở các tông đồ Đừng sợ! Để củng cố lòng tin, tăng cường đức cậy và khơi lên lòng mến nơi chúng ta.
Khi nói với các tông đồ Đừng sợ! Chúa muốn củng cố đức tin của các ông thêm vững mạnh trước những gian nan thử thách trong cuộc sống :
- Khi kêu gọi các tông đồ hãy luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Chúa Giêsu nói : Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, Đừng sợ! Vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con.
- Khi họ gặp thử thách bách hại, Chúa trấn an các ông : Khi người ta bắt nộp các con, đừng lo phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ dạy cho các con biết phải nói gì.
- Trong bài Tin mừng hôm nay, khi thấy các ông chèo thuyền vất vả giữa sóng to gió lớn, Chúa đi trên mặt biển đến với các ông và nói : Hãy yên tâm, Thầy đây, Đừng sợ!
Đã làm người, ai trong chúng ta cũng có những nỗi lo sợ riêng : Sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ chết, sợ mất linh hồn sa hỏa ngục…đó là điều tự nhiên. Chúa dạy chúng ta phải biết tin tưởng vào quyền năng của Chúa đang hoạt động nơi mỗi người chúng ta. Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta và ngài sẽ xuất hiện đúng lúc, kịp thời để cứu giúp chúng ta khi chúng ta cầu cứu đến ngài.
Đừng sợ! Đó là điệp khúc của lòng tin đã nâng đỡ sự yếu đuối của các tông đồ và thúc đẩy các ông can đảm tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu. Điệp khúc của lòng tin ấy vẫn còn âm vang bên tai chúng ta hôm nay, khi đối diện với những lo âu, sợ hãi hay những sóng gió của cuộc đời. Xin Chúa giúp chúng ta biết lắng nghe lời Chúa trấn an Đừng sợ! Để chúng ta cũng biết can đảm vượt qua mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống với một lòng tin vững vàng : Có Chúa luôn ở bên chúng ta và Ngài sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi điều lo sợ.

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XVIII Thường Niên (JosKieu)

PHÉP LẠ HÓA BÁNH RA NHIỀU
Bài giảng dành cho Thiếu nhi

Một hôm kia, khi nghe tin Thánh Gioan tẩy giả bị Vua Hêrôđê chém đầu, Chúa Giêsu rời bỏ nơi đó đi đến một nơi hoang vắng, có rất đông dân chúng đi theo Người. Thấy dân chúng đi theo và đang đói, động lòng thương, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi họ (5000 người). Chúa Giêsu không để cho những ai đi theo Chúa phải chết đói.
Xưa trong Cựu ước, tiên tri Ê-li-sê cũng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (từ 20 chiếc bánh nuôi 100 người ăn) trong một nạn đói, họ ăn no nê mà vẫn còn dư. Trong Tân ước, Chúa Giêsu làm phép lạ tương tự (từ 5 chiếc bánh nuôi 5000 người ăn) và còn dư 12 thúng đầy. Ê-li-sê là 1 tiên tri vĩ đại, nhưng Chúa Giêsu là 1 tiên tri còn vĩ đại hơn nữa. (So sánh 1 chiếc bánh cho 5 người ăn với 1 với chiếc bánh cho 1000 người ăn gấp 200 lần). Phép lạ nói lên tình thương và sự quan phòng của Chúa Giêsu đối với dân của Người, minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại.
Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để chúng ta tin, và nhờ tin mà chúng ta được ơn cứu độ. Nên điều giáo hội muốn đó là chúng ta biết lắng nghe và tin vào Chúa Giêsu. Phép lạ hóa bánh ra nhiều ngày xưa là hình bóng chỉ về Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu lập trong bữa tiệc ly ngày thứ năm tuần thánh, khi Chúa Giêsu và các môn đệ ăn bữa tiệc cuối cùng. Trong bữa tiệc đó Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ.
Chúa Giêsu đã yêu thương mọi người, Người dành tình yêu thương đặc biệt cho các em thiếu nhi, và Người yêu đến cùng. Người không nghĩ ra cách thế nào khác để yêu thương các em hơn là lấy chính chính Thịt và Máu Chúa làm của ăn nuôi dưỡng các em và muốn ở cùng các em luôn mãi. Vì vậy, để đáp lại tình Chúa yêu thương, các em hãy khao khát yêu mến Chúa và dọn tâm hồn cho xứng đáng để đón rước Chúa mỗi ngày.
Trong 7 Bí tích Chúa Giêsu đã lập thì Bí tích Thánh Thể là Bí tích cao trọng nhất vì ban cho chúng ta chính Chúa Giêsu là nguồn mọi ơn phúc. Muốn rước lễ, giáo hội chỉ đòi 3 điều kiện : 1. Sạch tội trọng, 2. Có ý ngay lành, và 3. Giữ chay 1 giờ trước khi rước lễ. Khi rước lễ, các em còn được Chúa ban nhiều ơn, đặc biệt là 4 ơn này : 1. Được kết hợp mật thiết với Chúa và với anh em, 2. Được Chúa tha các tội nhẹ và thêm ơn thánh hóa. 3. Được Chúa ban sức mạnh để chống lại chước cám dỗ của ma quỷ. 4. Được hưởng sự sống đời đời.
Gương thánh Đaminh Saviô rất yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và Chúa đã ban cho Saviô rất nhiều ơn.
Mới lên 7 tuổi, Saviô đã ước ao được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng. Theo luật phải 12 tuổi mới được, nhưng thấy Saiô là một cậu bé ngoan ngoãn, đạo đức thánh thiện nên các cha và mọi người đều đồng ý cho Saviô được rước lễ sớm hơn luật cho phép.
Gần tới ngày hạnh phúc đó, Saviô đã thưa với mẹ: ngày mai con được rước lễ lần đầu, xin mẹ tha thứ các lỗi lầm cho con, con hứa sẽ sống ngoan hơn, đến trường con chăm học, về nhà con vâng lời, chịu khó giúp đỡ cha mẹ. Sáng hôm đó, Saviô thức dậy sớm và phải đi bộ 4 cây số mới tới nhà thờ, lúc đó nhà thờ chưa mở cửa. Saviô đã quì ngoài cửa nghiêm trang sốt sắng để cầu nguyện.
Sau khi rước lễ, Saviô đã ghi vào sổ tay những quyết tâm :
1. Xưng tội mỗi tháng 1 lần và không bao giờ bỏ rước lễ.
2. Thánh hóa tất cả mọi ngày lễ.
3. Bạn thân của con là Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
4. Thà chết còn hơn phạm tội.
Và Saviô đã giữ những quyết này đến trọn đời, nên gương mẫu cho tất cả các thiếu nhi.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng con hãy cầu xin Chúa ban cho chúng con được lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ hàng ngày, nhất là xin Chúa giữ gìn tâm hồn chúng con luôn trong sạch, xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự và để chúng con xứng đáng với danh hiệu là thiếu nhi Thanýh Thể của Chúa. Amen.

JosKieu

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XVIII Thường Niên (Văn Hương)

Chủ Đề : HÓA BÁNH CHO ĐỜI.
Matthêô : 14,13-21.
----------------------------------------------------------------------------------------
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Một trong hai nhu cầu cơ bản không thể thiếu để sinh tồn của con người là của ăn. Và bài Tin mừng hôm nay cho thấy Thiên Chúa là Đấng dưỡng nuôi chúng ta. Ngài không chỉ quan tâm đến các nhu cầu vật chất của con người, nhưng còn làm no thỏa đời sống tâm linh nhân loại.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều được Chúa Giêsu thực hiện sau khi Ngài giảng dạy, chữa lành những bệnh tật thể xác của dân chúng. Tức là những người theo Chúa Giêsu vào nơi hoang vắng chỉ được ăn no nê sau khi đã nghe Lời Chúa. Điều này nói lên sự sống linh hồn phải được ưu tiên hàng đầu, trên cả việc kiếm tìm những thứ nuôi thân xác, như Chúa Giêsu đã từng mời gọi : “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33). Như thế, sự hiện hữu của con người nơi trần gian không phải để hưởng thụ hay kiến tạo sự thỏa mãn cho những đòi hỏi của thân xác, nhưng là hành trình tìm đến với Thiên Chúa trong sự quan phòng của Ngài. Bằng chứng là dấu lạ hóa bánh ra nhiều không do con người đòi hỏi hay thỉnh cầu, nhưng được hiện thực hóa bởi sáng kiến từ sự quan tâm và lòng thương xót của Chúa Giêsu đối với dân chúng. Thiết nghĩ, chúng ta nên học nơi Chúa Giêsu, biết nắm bắt ước muốn của người khác, đồng thời có những phương thế phục vụ họ một cách hiệu quả. Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ năm xưa : “Các con hãy cho họ ăn”, giờ đây đang mời gọi mỗi người chúng ta. Vì Thiên Chúa cần có những con người cộng tác vào công cuộc cứu độ nhân loại, qua việc xoa dịu các nỗi khốn khổ thể lý mà con người gặp phải, trước hết là cảnh đói nghèo. Trong sứ mệnh này, điều quan trọng không hệ tại ở nơi chúng ta có cái gì để trao ban, nhưng là chúng ta cho đi như thế nào. Người ta vẫn thường nói : “của cho không bằng cách cho”, miễn là chúng ta biết bắt đầu san sẻ trong tinh thần đức tin. Chúa sẽ thực hiện những gì còn lại. Hãy suy gẫm về năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ đơn sơ để thấy Thiên Chúa làm những việc lớn lao, kỳ diệu từ nỗ lực đóng góp xem ra không đáng kể của chúng ta. Như thế, chỉ cần chúng ta hiến thân trọn vẹn, cho dù tài nguyên, năng lực, văn hóa, sức khỏe của chúng ta yếu kém. Chúa Giêsu vẫn sẽ dùng chúng ta để thực hiện công việc của Ngài.
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Có thể khẳng định, mục đích của những người đi theo Chúa Giêsu xưa kia không phải để được ăn, nhưng vì Chúa Giêsu đáp ứng được sự đói khát Thiên Chúa nơi họ. Chính khát vọng cao siêu này đã dẫn tới việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều trước sự bất lực của con người. Thực vậy, chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá thì làm sao cứu đói năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà con trẻ. Ở đây, chúng ta nên học đức vâng lời của các môn đệ, đem phân phát số lương thực ít ỏi đó cho dân chúng để rồi thu về mười hai thúng những mẩu bánh vụn. Sự dư dật này là một dấu chỉ được loan báo cho thời kỳ của Đấng Mê-si-a trong Kinh thánh : “Ta sẽ đổ xuống muôn hồng ân, cho Xion được lương thực dồi dào và ban cho kẻ nghèo được no nê cơm bánh”(Tv 132,15). Ước gì lời Chúa hôm nay nhắc nhớ chúng ta ý thức về vinh dự được tham gia vào chính công việc của Chúa Giêsu, đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và con người trong việc “hóa bánh ra nhiều” cho con người ngày nay.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những đấng kế vị các sứ đồ và những người có trách nhiệm trên các linh hồn, kể cả các nhà giáo dục và phụ huynh Kitô giáo. Biết phân phát không chỉ lương thực bổ dưỡng linh hồn là lời Chúa và Thánh thể, nhưng còn chung tay xây dựng cuộc sống vắng bóng sự nghèo đói. Chúng ta cũng cầu nguyện cách riêng cho các linh mục, là những người được chính thức ủy thác thi hành công việc của Chúa Giêsu, đồng thời cầu nguyện cho cả chúng ta nữa, vì chúng ta cũng được tham dự vào theo cách thế riêng, bằng cách dẫn đưa những kẻ mà chúng ta có trách nhiệm coi sóc đến bàn tiệc Thánh Thể và dạy cho biết lời Thiên Chúa.
Như Chúa Kitô đã quan tâm đến các nhu cầu vật chất của quần chúng, thì chúng ta cũng phải làm hết sức để chu toàn bổn phận căn bản của Kitô hữu, bổn phận mà nếu cố gắng hoàn thành thì sẽ lãnh nhận phần thưởng Nước trời : "Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, vì ... xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn" (25, 34- 35). Amen

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XVII Thường Niên (Văn Hương)

Chủ Đề : TÌM KIỀM NƯỚC TRỜI.
Matthêô : 13,44-52.
----------------------------------------------------------------------------------------
Kính Thưa quý ông bà và anh chị em,
Chúng ta vừa nghe một trích đoạn lời Chúa trong Tin mừng Thánh Matthêô, gồm ba dụ ngôn nói đến giá trị vô song của Nước trời. Qua đó, cho chúng ta phương thế để chiếm hữu, đồng thời mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại cuộc đời mình. Bấy lâu nay chúng ta sống và nỗ lực làm việc hướng đến sự vĩnh hằng là Nước Thiên Chúa hay là những vinh hoa chóng qua của thế gian.
Có thể nói, Nước trời hiện hữu giữa trần gian và trong chúng ta, nhưng không phải ai cũng có khả năng nhận biết và dự phần. Vì Nước trời được sánh ví như kho báu chôn giấu trong ruộng, nếu không bỏ công sức tìm kiếm chắc chắn sẽ không gặp. Do đó, cần đến yếu tố khách quan là thời gian và yếu tố chủ quan là ý chí. Như vậy, điều kiện đầu tiên không thể thiếu trong quá trình chinh phục Nước Chúa là nhận thức chính xác về cùng đích của đời người và lòng khát khao đạt được cùng đích đó qua sự kiên trì kiếm tìm. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc gặp thấy Nước Thiên Chúa, tức là việc tìm kiếm thành công thì vẫn chưa đủ, cần phải đánh đổi như những nhân vật trong bài Phúc âm, “vui mừng bán tất cả những gì mình có”(x. Mt 13, 44.46) để có thể mua và được sở hữu. Đây là bước quyết định cho sự tồn vong của bản thân, cho nên, đòi hỏi sự từ bỏ và lòng dũng cảm. Như thế, Nước trời không có chỗ cho những ai ăn không ngồi rồi, hèn nhát, bám víu lấy sự phù vân thế gian. Và dụ ngôn lưới cá thả xuống biển bắt được mọi thứ cá khẳng định điều này : Nước trời thuộc về mọi người, nhưng không có nghĩa ai cũng được vào, chỉ có những kẻ xứng đáng, sau khi đã vượt qua cuộc thanh lọc như người ta lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì mén ra ngoài. Nói cách khác, Nước trời thời con người dương gian tìm kiếm để chiếm hữu được diễn tả qua hai dụ ngôn : Kho báu và Viên ngọc quý, còn dụ ngôn Lưới cá nói về Nước Chúa thời chung thẩm. Vào ngày này, chỉ có những ai sống triệt để tinh thần của người tìm thấy kho báu, hoặc của người buôn ngọc mới có Nước trời làm gia nghiệp. Như thế, cuộc sống của chúng ta nơi trần gian tuy ngắn ngủi, qua mau, nhưng lại quyết định đến đời sống bất diệt sau này. Bởi đó, “Trước hết, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33), đừng để thời gian qua đi vô ích, nhưng hãy tận dụng sự vắn vỏi của kiếp người ngõ hầu tích luỹ cho mình kho tàng trên trời, nơi mối mọt không thể làm hư nát, và kẻ trộm không thể khoét vách lấy mất, chớ để mọi sự thành ra muộn màng mà bị liệt vào hàng ngũ kẻ dữ, phải khóc lóc nghiến răng trong lò lửa địa ngục.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Con người có khuynh hướng tìm kiếm những gì đảm bảo cho cuộc sống bản thân, đây là một nhu cầu không có sự thoả mãn, như cha ông ta thường nói : “lòng tham không đáy”, hoặc “có một đòi hai”, hay “được voi đòi tiên”, do đó, sự sống linh hồn luôn ở trong tình trạng bấp bênh vì không được chú trọng. Trong khi người đời có thói quen đánh giá và nhìn nhận sự khôn ngoan của nhau dựa trên thành quả vật chất, sự nghiệp, công danh, thì với Thiên Chúa tất cả những thứ đó chỉ là số không nếu linh hồn bị hư mất. Ước gì lời Chúa hôm nay giúp chúng ta chọn lựa sự khôn ngoan từ Thiên Chúa, vì như lời Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi Côrintô : “Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em”(1Cr 1,30). Được như vậy, chúng ta mới chấp nhận trở nên trắng tay, tức là đánh đổi tất cả những gì mình có để nhận lãnh từ Thiên Chúa hiện tại và tương lai của mình, vì chưng, ai có Thiên Chúa là có tất cả, chỉ mình Ngài là đủ, đồng thời loại bỏ giá trị của những thứ mà thế gian coi trọng, đề cao. Đây là một chân lý chỉ có thể hiểu được nhờ kinh nghiệm sống.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết từ bỏ não trạng trần tục của mình như lòng lo sợ mất mát hay thiếu thốn, nỗi ám ảnh muốn được bảo đảm an toàn, hay chương trình sống ích kỷ do chúng ta lập ra, nhưng hiểu rõ cái được - và cái mất của đời sống, cũng như biết mặc lấy tâm tình của hai kẻ tìm thấy kho tàng và bắt gặp ngọc quý : “vui mừng” vì sự hy sinh không phải là một việc đau buồn, đồng thời biết chắc rằng bản thân không mất gì cả, chỉ là sự trao đổi những thứ chóng qua mà mình có để lấy sự sống đời đời là Nước trời. Amen

Thứ Năm, 14 tháng 7, 2011

Bài giảng Chúa Nhật XVI Thường Niên (Văn Hương)


Chủ Đề : HIỆN THỰC HOÁ NƯỚC TRỜI.
Matthêô : 13,24-43.
----------------------------------------------------------------------------------------
Cộng đoàn thân mến,
Chúng ta vừa nghe ba dụ ngôn nói về Nước trời, qua đó lý giải một số vấn đề trong cuộc sống mà chúng ta gặp phải, chẳng hạn như sự tồn tại giữa thiện và ác. Người hiền đức thì gặp toàn bất trắc khổ đau và ngược lại kẻ bất lương thì nhởn nhơ hưởng thụ. Như vậy, Nước Thiên Chúa ở đâu giữa thế gian đầy cạm bẫy, xô bồ và lắm nhiêu khê này.
Dụ ngôn cỏ lùng cho chúng ta thấy, Thiên Chúa là ông chủ ruộng, chấp nhận để kẻ dữ và người lành cùng tồn tại và phát triển như lúa và cỏ lùng cùng mọc lên. Trong khi cỏ lùng không thể thành lúa, thì người ác có thể hoàn lương. Và Thiên Chúa cho thời gian, tạo điều kiện, đồng thời chờ đợi sự biến đổi kỳ diệu này. Bởi vì, Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, như ông chủ ruộng không cho thợ nhổ cỏ lùng. Ngày tận thế, kẻ dữ, tức những người cố chấp, không chịu hoán cải, chẳng khác gì lời Thánh vịnh 36 câu 2 đến câu 5 : «Tội ác thì thào trong thân tâm kẻ dữ ; hắn không thấy cần phải kính sợ Chúa Trời. Hắn tự cao tự đại, nên chẳng thấy tội mình mà chê ghét. Lời nói toàn xảo quyệt dối gian, hết lẽ khôn ngoan, hết điều lương thiện ! nằm trên giường hắn bầy ra chước độc mưu thâm, hắn đứng lỳ trên nẻo đường bất hảo, không còn chê ghét việc gian tà» nên sẽ nhận lấy án phạt, vì Thiên Chúa không thể làm gì hơn ngoài việc quăng họ vào hoả ngục như cỏ lùng bị thiêu rụi trong lửa.
Có thể nói, hiện tại những thế của sự dữ như đau khổ, bệnh tật, cái chết phần nào lấn lướt, nhưng không có nghĩa Nước Thiên Chúa bị triệt tiêu. Dụ ngôn Hạt cải và Men trong bột cho thấy sức mạnh vô song và sự lan toả mãnh liệt của Nước Trời, mà Giáo hội chính là thực tại được khởi đầu bởi các Tông đồ với con số mười hai ít ỏi, nhưng nay đã rộng khắp thế giới. Nhìn vào Giáo hội, chúng ta thấy ở đó không chỉ có các thánh nhân, những thành phần ưu tú, nhưng Giáo hội còn cưu mang cả các phần tử tội lỗi, xấu xa nữa. Điều này nói lên sứ mệnh cũng như vai trò thánh hoá của Giáo hội. Như thế, Nước Thiên Chúa không hiện hữu như một vương quốc riêng biệt nhưng giữa trần gian và cho nhân gian. Hình ảnh hạt cải nhỏ bé phát triển thành cây cho chim trời nương náu và nắm men làm ba đấu bột dậy men nói với chúng ta : Nước Thiên Chúa là điểm tựa, nơi dung thân của tất cả mọi người, nhất là những kẻ bé mọn, khiêm tốn và có lòng khao khát được Tin mừng biến đổi tận căn. Do đó, hãy để lời Chúa thánh hoá bản thân, dẫn dắt chúng ta luôn đi trên đường ngay nẻo chính, không sa vào con đường lầm lạc, đồng thời thanh tẩy tâm trí chúng ta khỏi mọi toan tính hiểm độc và những đam mê thấp hèn. Có như thế, chúng ta mới có khả năng nhận biết những «điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian» mà Chúa Giêsu Kitô mạc khải. Và Nước trời sẽ hiển trị nơi chính con người chúng ta.
Cộng đoàn thân mến,
Bổn phận của người Kitô hữu là trở nên hạt cải, nem bột để loại trừ sự dữ như thợ gặt nhổ cỏ lùng rồi đốt đi, ngõ hầu hiện thực hoá Nước trời nơi trần gian. Đây là một sứ mệnh hết sức khó khăn, vì không chỉ buộc chúng ta phải từ bỏ những dính bén, lôi kéo hấp dẫn của thế gian và xác thịt nhưng còn đòi hỏi chúng ta không ngừng nỗ lực nên Thánh, nên hoàn thiện như Chúa Cha ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Tức là người khác có thể cảm nhận được Nước trời trong đời sống của chúng ta. Và để được như vậy, thiết nghĩ, chúng ta phải khiêm tốn, nhìn nhận mình là con người bất toàn yếu đuối, như lời Chúa trong sách tiên tri Giêrêmia : «Lạy Chúa, chúng con nhận rằng mình gian ác, và cha ông sai lỗi đã nhiều, quả chúng con đều đắc tội với Chúa»(Gr 14,20), để từ đó biết cậy dựa vào Chúa, sử dụng ân sủng của Ngài một cách hiệu quả. Ước gì lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhìn lại mình, xét xem chúng ta thuộc thành phần nào : là cỏ lùng xâm hại đồng lúa hay là lúa hướng về mùa gặt ; là chim trời chỉ biết nương tựa hay hạt cải cho tha nhân được nhờ ; là men để hoán cải người khác hay là bột để người khác lôi kéo.
Trong khi chờ đợi ngày của Chúa và làm cho ngày đó mau đến, hay nói cách khác, để hiện thực hoá lời nguyện : «Xin cho Nước Cha trị đến». Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta biết sống chừng mực và tiết độ với một đức tin tinh tuyền không chi đáng trách. Bởi vì «Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện»(1Th 4,7), đồng thời dạy chúng ta phải yêu thương nhau. Xin cho lời Thánh Giacôbê sau đây hướng dẫn đời sống đạo của chúng ta : «Anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn ; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em ; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em»(Gc 1,21). Amen

Bộ sưu tập hình hang đá máng cỏ

Liên kết các Blog

Album CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ

Album SAO CON KHÔNG CÓ LỜI RU

Lượt xem:

Web Page Traffic Counter

Powered By Blogger